Sinh thái nhân văn và mạng lưới quốc gia các khu dự trữ sinh quyển thế giới của Việt Nam

Con người là thành phần quan trọng của sinh quyển, tiến hóa của loài người gắn liền với tiến hóa của sinh quyển. Tác động của con người lên sinh quyển có thể thấy rõ, như ô nhiễm môi trường, chuyển đổi hoặc gây ra đảo lộn nơi sống, thay đổi cấu trúc và phân bố lớp phủ thực vật và đất, khai thác quá mức nguồn lợi không tái tạo, thay đổi thành phần loài trong tự nhiên của một vùng (do phát triển nông nghiệp), nhập nội loài mới, gây đảo lộn sinh thái, thay thế đa dạng loài bằng đơn loài (do phát triển nông nghiệp, nuôi thủy sản), sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, diệt cỏ, xả chất thải bừa bãi, mất cân bằng các hệ thống sinh thái, môi trường (John, 1994; Socialist Republic of Vietnam, 2004). Áp dụng, sử dụng sinh thái nhân văn như một cách tiếp cận hiệu quả trong việc xây dựng và quản lý các khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) đã và đang được thực hiện thành công tại Việt Nam. Báo cáo này tóm tắt những bài học kinh nghiệm áp dụng sinh thái nhân văn trong việc xây dựng và quản lý các KDTSQ thế giới tại Việt Nam.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 18/06/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sinh thái nhân văn và mạng lưới quốc gia các khu dự trữ sinh quyển thế giới của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54 SINH THÁI NHÂN VĂN VÀ MẠNG LƯỚI QUỐC GIA CÁC KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN THẾ GIỚI CỦA VIỆT NAM Nguyễn Hoàng Trí Đại học Sư phạm Hà Nội GIỚI THIỆU Con người là thành phần quan trọng của sinh quyển, tiến hóa của loài người gắn liền với tiến hóa của sinh quyển. Tác động của con người lên sinh quyển có thể thấy rõ, như ô nhiễm môi trường, chuyển đổi hoặc gây ra đảo lộn nơi sống, thay đổi cấu trúc và phân bố lớp phủ thực vật và đất, khai thác quá mức nguồn lợi không tái tạo, thay đổi thành phần loài trong tự nhiên của một vùng (do phát triển nông nghiệp), nhập nội loài mới, gây đảo lộn sinh thái, thay thế đa dạng loài bằng đơn loài (do phát triển nông nghiệp, nuôi thủy sản), sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, diệt cỏ, xả chất thải bừa bãi, mất cân bằng các hệ thống sinh thái, môi trường (John, 1994; Socialist Republic of Vietnam, 2004)... Áp dụng, sử dụng sinh thái nhân văn như một cách tiếp cận hiệu quả trong việc xây dựng và quản lý các khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) đã và đang được thực hiện thành công tại Việt Nam. Báo cáo này tóm tắt những bài học kinh nghiệm áp dụng sinh thái nhân văn trong việc xây dựng và quản lý các KDTSQ thế giới tại Việt Nam. 1. SINH THÁI NHÂN VĂN - NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN VÀ CÁCH TIẾP CẬN Người Việt Nam rất coi trọng mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Theo quan niệm truyền thống, mối quan hệ này được thể hiện trên ba yếu tố thiên - địa - nhân (trời - đất - người). Con người là một bộ phận của thiên nhiên, người là “hoa của đất”. Con người là cao quý, nhưng không thể thoát ly khỏi các quy luật của tự nhiên, mà chính là do thiên nhiên tạo ra. Ý tưởng con người sống hài hòa với thiên nhiên đã được các bậc tiền nhân đúc kết: “Trăng thanh gió mát kho vô tận, nước biển non xanh thú hữu tình”. Những nghiên cứu về sinh thái nhân văn không chỉ đề cập đến những quy luật tự nhiên, mà 55 cả những quy luật xã hội, đặc biệt là sự tác động qua lại giữa hai hệ thống này với nhau trong quá trình phát triển. Nói một cách khác, nó yêu cầu các nghiên cứu này phải thể hiện được những kiến thức cả về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội trong một mối quan hệ tổng hợp, hài hòa. Nghiên cứu sinh thái nhân văn cũng cần đề cập đến những quan điểm từ cổ xưa nhất cho đến nay của loài người về các hệ sinh thái, trong đó các dạng thức nhân văn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong mối quan hệ giữa con người với các hệ thống tự nhiên. Chính những nghiên cứu này sẽ tạo ra những luận cứ khoa học mang tính tổng thể về những vấn đề của hiện tại và dự báo tương lai, nhằm tìm ra những tác động thảm họa đối với môi trường, do chính các hoạt động nhân văn gây ra. Khi phát triển khái niệm hệ sinh thái, trong sinh thái học đã đưa ra luận điểm gọi là “tiếp cận hệ thống”. Ðiều này đã làm cơ sở cho các ngành khoa học trong nghiên cứu tổng hợp, với yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu kết hợp cả quần thể, quần xã và hệ sinh thái, với sự tham gia của nhiều ngành khoa học khác nhau, cả tự nhiên và xã hội. Quan điểm hệ thống cho rằng: một hệ thống được đặc trưng bằng các mối tác động qua lại bên trong mỗi thành phần và giữa các thành phần với nhau. Rất may mắn là, sau khi nhận ra bản chất sinh thái học của ý tưởng này, các nhà sinh thái học đã đón nhận và phát triển thành kỹ thuật phân tích hệ thống đang được áp dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu liên ngành mang tính tổng hợp cao hiện nay. Rõ ràng là, khi áp dụng cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu các quá trình của các hệ sinh thái tự nhiên, người ta dễ dàng nhận ra tác động rất quan trọng từ các hoạt động do con người gây ra trên mọi lĩnh vực. Hầu như không có một quần thể, quần xã, hệ sinh thái nào trên Trái đất của chúng ta mà không chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người. Ðó chính là tác động của những hành vi văn hóa nhân văn của con người đối với thiên nhiên. Ngày nay, những tác động này đã tác động trên quy mô toàn cầu, đôi khi vượt lên cả trong phạm vi hành tinh của chúng ta cũng như cả vũ trụ bao quanh. Có thể nói, mỗi tác động ở một hệ thống này, sẽ ảnh hưởng tới tổng thể các hệ thống khác. Chẳng hạn như việc chặt phá rừng quá mức (sinh quyển), làm tăng CO2 và thay đổi vi khí hậu (khí quyển), gây xói mòn đất, bạc màu và sa mạc hóa (địa quyển), đồng thời tăng lượng trầm tích và thay đổi chất lượng nước vùng cửa sông ven biển (thủy quyển). Phân tích, tổng hợp và tìm ra giải pháp tổng thể để hạn chế tới mức tối đa tình trạng mất cân bằng sinh thái hiện nay, đang trở nên nghiêm trọng thể hiện qua sự suy giảm chất lượng môi trường, cũng như các biến cố, 56 thảm họa, không thể tránh khỏi trong tương lai, sẽ là những ưu tiên trong các dự án nghiên cứu sinh thái nhân văn hiện nay. Có thể tóm tắt những nguyên lý cơ bản trong sinh thái nhân văn như sau: - Hệ sinh thái nhân văn vận động theo quy luật hệ thống, gồm 2 thành phần chính là hệ tự nhiên và hệ nhân văn, trong mỗi hệ lại có các thành phần là các hệ nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa về mặt cấu trúc, chúng thường biểu hiện theo cấu trúc ngang hoặc dọc, tùy thuộc vào cách đánh giá xem xét. Nhìn tổng thể, đó là một hệ thống phức tạp, luôn vận động nhưng hài hòa. - Tiếp cận sinh thái nhân văn dựa trên tư duy hệ thống, nghiên cứu sinh thái nhân văn là nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực. - Cơ chế, chính sách và văn hóa là nhân tố đòn bẩy trong toàn bộ hệ thống sinh thái nhân văn, là điều kiện cần và đủ để kết nối các thành phần trong hệ thống vận động theo các quy luật tự nhiên, xã hội, duy trì trạng thái bền vững. 2. TIẾP CẬN SINH THÁI NHÂN VĂN TRONG XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ CÁC KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN VÀ MẠNG LƯỚI CÁC KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN THẾ GIỚI CỦA VIỆT NAM Sinh quyển là phần của Trái đất có các sinh vật sinh sống (biota), kể cả con người. Từ những loài sinh vật sống dưới đáy biển sâu, đến những loài sinh vật trong không khí, hoặc sâu trong lòng đất đều thuộc về sinh quyển. Giới hạn của sinh quyển bao gồm phần dưới của khí quyển, hầu hết thủy quyển (toàn bộ nước mặt và nước ngầm) và phần trên của địa quyển (toàn bộ đất và bề mặt lớp đá, lớp trầm tích dưới đáy đại dương và các hồ ao, sông, suối...). Sự vận động của các thành phần trong sinh quyển theo cơ chế “hệ thống” và “tự điều chỉnh” như một cơ thể sống. Khái niệm sinh quyển như một hệ thống sống trên Trái đất ra đời vào những năm 1920, nhưng cho mãi tới vài thập kỷ gần đây mới được chấp nhận rộng rãi. Trái đất không chỉ như một ngôi nhà chung, mà nó còn vận động thông qua các mối tương tác hữu cơ giữa tất cả các loài thực vật và động vật với nhau, với môi trường và với con người. Các KDTSQ như những hệ thống “mẫu” trên Trái đất, việc quản lý các KDTSQ được dựa trên phương châm “tư duy hệ thống, quy hoạch cảnh quan, điều phối liên ngành, kinh tế chất lượng”. Đây là kim chỉ nam cho mọi hoạt động quản lý bền vững các KDTSQ (UNESCO, 1996, 2005). 57 Chỉ trong vòng 15 năm, Việt Nam đã được thế giới công nhận 9 KDTSQ thế giới. Đó là rừng ngập mặn Cần Giờ, Cát Tiên, quần đảo Cát Bà, đất ngập nước châu thổ sông Hồng và các KDTSQ Kiên Giang, Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm - Hội An, Mũi Cà Mau và Langbiang. Sắp tới sẽ hoàn thành hồ sơ đệ trình Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Hoàng Liên Sơn (Lào Cai). Với phương châm của UNESCO “thống nhất trong đa dạng”, mỗi KDTSQ là một mô hình phát triển bền vững, tùy thuộc vào từng địa phương cụ thể mà có cách thiết kế, phân vùng, tổ chức và điều phối quản lý đa dạng, nhưng đều có một mục tiêu cụ thể là tạo ra sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên và giữa con người với con người, trong đó tiếp cận sinh thái nhân văn là cơ sở cho các hoạt động trên (Nguyễn Hoàng Trí, 2006a, 2006b). Nếu như trước đây, khu bảo tồn thường được xem như một cái “chai nút kín”, đó là sự tách biệt một khu vực tự nhiên ra khỏi hoạt động của con người (chính sách di dân). Cách tiếp cận như vậy sớm hay muộn đều có thể dẫn đến thất bại, do những áp lực xã hội và sinh thái cả trong và ngoài khu bảo tồn. Những cách làm không hợp lý đó về bảo tồn cần được thay đổi. Thực tế cho thấy, các khu bảo tồn vẫn cần có một số khu vực không có hoặc chịu rất ít tác động của con người, với những quy định kiểm soát chặt chẽ, được gọi là vùng lõi. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy phát triển kinh tế thân thiện với môi trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng xung quanh, được gọi là các vùng đệm và chuyển tiếp, trong đó người dân địa phương đóng vai trò chủ chốt, thì công tác bảo tồn mới đạt được hiệu quả lâu dài và bền vững. Với cách tiếp cận sinh thái nhân văn, chúng tôi đã đề xuất phương châm “tư duy hệ thống, quy hoạch cảnh quan, điều phối liên ngành, kinh tế chất lượng” (System thinking, Land/sea scape, Inter-sectoral collaboration, Quality economy - SLIQ). Cụ thể như sau: - Tư duy hệ thống là một cách nhìn, cách suy nghĩ tổng thể theo quan điểm hệ thống, với rất nhiều các thành phần và các mối tác động qua lại giữa chúng với nhau và với môi trường xung quanh, hay còn gọi là các quá trình động thái. Bản thân mỗi KDTSQ là một hệ thống, với nhiều thành phần, nhiều mối quan hệ của các quá trình vận động của tự nhiên và con người. Đây là cơ sở để hiểu và thực hiện quy hoạch cảnh quan, điều phối liên ngành và kinh tế chất lượng trong KDTSQ. 58 Hình 1. SLIQ như một ngôi nhà, mà nền móng là tư duy hệ thống, các trụ cột chính là quy hoạch cảnh quan và điều phối liên ngành duy trì nóc nhà là nền kinh tế chất lượng, cơ sở cho phát triển bền vững - Quy hoạch cảnh quan được thực hiện dựa trên các nguyên lý cơ bản của sinh thái học cảnh quan và sinh thái học hệ thống, với sự phân vùng, quản lý sử dụng đất, nước và các nguồn tài nguyên khác một cách hợp lý, trong một địa phương cụ thể. Thực chất của quy hoạch cảnh quan chính là quản lý sử dụng đất trên đất liền và quản lý sử dụng biển ở các KDTSQ ven biển, biển và hải đảo. Quá trình quy hoạch phải dựa trên những điều kiện cụ thể về địa chất, địa mạo, đất đai, thổ nhưỡng, các yếu tố sinh học và các yếu tố nhân văn, truyền thống sử dụng và văn hóa sinh học... Sự tham gia của người dân địa phương trong công tác quy hoạch là điều kiện sống còn để đảm bảo tính khả thi cho một bản quy hoạch cụ thể. Quy hoạch cảnh quan thông qua cấu trúc 3 vùng bắt buộc (lõi, đệm, chuyển tiếp), là đặc trưng riêng của các KDTSQ UNESCO. - Điều phối liên ngành là sự thể hiện thực tiễn của sự kết nối các bên tham gia trong công tác quản lý dựa trên các hệ thống chính sách hiện có. Đó là cách tiếp cận hài hòa giữa chính sách từ trên xuống mang tính chỉ đạo, định hướng và sự tham gia của người dân địa phương từ dưới lên với những bất cập, bức xúc và truyền thống lâu đời của người dân. Vai trò của các tổ chức dân sự, phi chính phủ cực kỳ quan trọng trong quá trình này. Đây chính là cầu nối giữa các bên tham gia, giữa Chính phủ và người dân. - Kinh tế chất lượng là sự tạo ra một nền kinh tế dựa trên bảo tồn (conservation-based economy), phù hợp với xu thế kinh tế xanh, tăng trưởng xanh đương đại, với các hoạt động đăng ký nhãn hiệu, tiếp thị và thúc đẩy sản phẩm chất lượng của địa phương dựa trên sự TƯ DUY HỆ THỐNG (S) Đ IỀ U P H Ố I LI ÊN N G À N H (I) Q U Y H O Ạ C H C Ả N H Q U A N (L ) KINH TẾ CHẤT LƯỢNG (Q) 59 nổi tiếng, những giá trị toàn cầu mà công tác bảo tồn mang lại. Đây chính là cơ sở nâng cao giá trị hàng hóa, với các giá trị gia tăng trong chuỗi và tạo tiền đề sáng tạo những chuỗi hàng hóa mới mang hàm lượng trí tuệ cao hơn. KẾT LUẬN Sinh thái nhân văn và tiếp cận sinh thái nhân văn được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực, trong đó có việc áp dụng trong xây dựng và quản lý các khu dự trữ sinh quyển và mạng lưới các KDTSQ thế giới của Việt Nam. Sinh thái nhân văn là cơ sở khoa học, là nền tảng cho sự đổi mới tư duy, đổi mới cách suy nghĩ, cách làm, từ tư duy đơn ngành, rời rạc, không gắn kết, trở nên tư duy đa ngành, đa lĩnh vực, theo hệ thống. Đây chính là kim chỉ nam cho mọi hành động, từ nghiên cứu đến hành động, từ đơn giản đến phức tạp. Mạng lưới các KDTSQ thế giới tại Việt Nam sẽ là những mô hình phát triển bền vững của địa phương, càng củng cố thêm tính đúng đắn, tính hoàn thiện của lý thuyết và cách tiếp cận sinh thái nhân văn. Mặc dù hiện nay công tác quản lý các KDTSQ còn nhiều bất cập, đó cũng là khó khăn, thách thức dễ hiểu cho một quá trình đang vận động, chuyển đổi từ tư duy cũ sang một cách tư duy mới, cách làm mới mà cả thế giới đang thực hiện. Chúng ta đang trong quá trình hội nhập, cần tiếp cận với thế giới hiện đại, trí tuệ, trong đó sinh thái nhân văn với vai trò dẫn đường cho sự chuyển đổi đầy khó khăn và thách thức này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. John N., 1994. Knowledge, Power and Agriculture - Towards a Theoretical Understanding. Beyond Farmer First: Rural Peoples Knowledge. Agricultural Research and Extension Practice. Intermediate Technology Publications: pp. 16-32. 2. Socialist Republic of Vietnam, 2004. Decision of Prime Minister on Issuing the Vietnam’s Strategy for Sustainable Development (Vietnam Agenda 21). No.153/2004/QĐ-TTg on 17/8/2004. 3. Nguyễn Hoàng Trí, 2006a. Sinh quyển và các khu dự trữ sinh quyển. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 4. Nguyễn Hoàng Trí, 2006b. Sinh thái nhân văn. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 5. UNESCO, 1996. The Seville Strategy and the Statutory. 6. UNESCO, 2005. Promotion of a Global Partnership for the UN Decade of Education for Sustainable Development (2005-2014).
Tài liệu liên quan