Đặt vấn đề: Sinh thiết thận qua da là một thủ thuật đóng vai trò quan trọng trong ngành thận học, giúp
chẩn đoán xác định và đưa ra phương pháp điều trị đúng đắn.
Mục tiêu: Nghiên cứu kỹ thuật, biến chứng và kết quả đạt được của sinh thiết thận qua da tại bệnh viện
Nhân dân Gia định
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu, mô tả hàng loạt ca
Kết quả: Trong thời gian từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 3 năm 2013, chúng tôi tiến hành sinh thiết thận
được 75 trường hợp, trong đó 43 bệnh nhân hội chứng thận hư (HCTH) nguyên phát, 1 bệnh nhân HCTH thứ
phát sau ung thư phổi, 4 bệnh nhân HCTH kèm viêm gan siêu vi, 21 viêm thận do Lupus, 2 viêm cầu thận mạn,
4 suy thận cấp do nguyên nhân cầu thận. Có 61 (81,3%) bệnh nhân còn phù và 22 (29,3%) bệnh nhân suy thận
vào thời điểm sinh thiết. Có 74 (98,7%) trường hợp cho được kết quả giải phẫu bệnh với số cầu thận trung bình
20,8±7,8. Chỉ có 2 bệnh nhân bị biến chứng nhẹ bao gồm 1 bệnh nhân bị tiểu máu đại thể, 1 bệnh nhân bị tụ máu
cực dưới thận. Trong nhóm bệnh cầu thận nguyên phát, xơ chai cầu thận khu trú từng vùng chiếm tỉ lệ cao nhất
23,4%, tiếp theo sang thương tối thiểu 19,1%, bệnh cầu thận màng 12,7%, bệnh thận IgA 12,7%, và sang
thương tăng sinh màng 10,6%. Trong nhóm bệnh cầu thận thứ phát, viêm thận do Lupus thương gặp nhất
81,5%, đa số là class IV.
Kết luận: Sinh thiết thận qua da tại Bệnh viện Nhân dân Gia định thực hiện an toàn, tỉ lệ thành công cao
ngay cả ở những bệnh nhân còn phù, suy thận, giúp ích cho chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sinh thiết thận tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 65
SINH THIẾT THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Huỳnh Ngọc Phương Thảo**, Nguyễn Thị Thu Thảo*, Nguyễn Xuân Thắng*,
Nguyễn Tấn Sử*, Trần Hiệp Đức Thắng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sinh thiết thận qua da là một thủ thuật đóng vai trò quan trọng trong ngành thận học, giúp
chẩn đoán xác định và đưa ra phương pháp điều trị đúng đắn.
Mục tiêu: Nghiên cứu kỹ thuật, biến chứng và kết quả đạt được của sinh thiết thận qua da tại bệnh viện
Nhân dân Gia định
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu, mô tả hàng loạt ca
Kết quả: Trong thời gian từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 3 năm 2013, chúng tôi tiến hành sinh thiết thận
được 75 trường hợp, trong đó 43 bệnh nhân hội chứng thận hư (HCTH) nguyên phát, 1 bệnh nhân HCTH thứ
phát sau ung thư phổi, 4 bệnh nhân HCTH kèm viêm gan siêu vi, 21 viêm thận do Lupus, 2 viêm cầu thận mạn,
4 suy thận cấp do nguyên nhân cầu thận. Có 61 (81,3%) bệnh nhân còn phù và 22 (29,3%) bệnh nhân suy thận
vào thời điểm sinh thiết. Có 74 (98,7%) trường hợp cho được kết quả giải phẫu bệnh với số cầu thận trung bình
20,8±7,8. Chỉ có 2 bệnh nhân bị biến chứng nhẹ bao gồm 1 bệnh nhân bị tiểu máu đại thể, 1 bệnh nhân bị tụ máu
cực dưới thận. Trong nhóm bệnh cầu thận nguyên phát, xơ chai cầu thận khu trú từng vùng chiếm tỉ lệ cao nhất
23,4%, tiếp theo sang thương tối thiểu 19,1%, bệnh cầu thận màng 12,7%, bệnh thận IgA 12,7%, và sang
thương tăng sinh màng 10,6%. Trong nhóm bệnh cầu thận thứ phát, viêm thận do Lupus thương gặp nhất
81,5%, đa số là class IV.
Kết luận: Sinh thiết thận qua da tại Bệnh viện Nhân dân Gia định thực hiện an toàn, tỉ lệ thành công cao
ngay cả ở những bệnh nhân còn phù, suy thận, giúp ích cho chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh.
Từ khóa: sinh thiết thận, bệnh cầu thận, hội chứng thận hư
ABSTRACT
RENAL BIOPSY IN NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL
Huynh Ngoc Phuong Thao, Nguyen Thi Thu Thao, Nguyen Xuan Thang, Nguyen Tan Su,
Tran Hiep Duc Thang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 65 ‐ 73
Introduction: Percutaneous kidney biopsy is an important procedure in nephrology, which is helpful for
definitive diagnosis, and proper treatment.
Objective: To study techniques, complications and results of kidney biopsy in Nhan dan Gia dinh Hospital.
Method: A retrospective, case series
Results: From March 2011 to March 2013, we proceeded renal biopsy in 75 patients, in which 43 primary
nephrotic syndrome (NS), 1 NS secondary to pulmonary cancer, 4 NS associated with viral hepatitis, 21 lupus
nephritis, 2 chronic glomerulonephritis, 4 acute renal failure due to glomerulopathy. There were 61 (81.3%)
patients presented with edema and 22 (29.3%) patients with renal failure at the time of biopsy. There were 74/75
(98.7%) cases showing the final results of pathology. Mean of glmeruli per specimen was 20.8±7.8. 2 patients had
mild complications including 1 hematoma in the inferior pole of the kidney and 1 macroscopic hematuria. Of the
primary glomerulopathy, the most frequent pattern was focal segmental glomerulosclerosis 23.4%, followed with
* Khoa Nội Tiết Thận ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định ** Bộ môn Nội, Đại học Y dược TP
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Huỳnh Ngọc Phương Thảo ĐT 0918196969 Email : huynhngocphuongthao@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 66
minimal change diseases 19.1%, membranous glomerulopathy 12.7%, IgA nephropathy 12.7% and
membranoproliferative glomerulonephritis 10.6%. Of secondary glomerulopathy, lupus nephritis was most
popular 81.5%, most of which was class IV.
Conclusion: Percutaneous renal biopsy in Nhan dan Gia dinh Hospital was a safe and efficacious procedure
in diagnosis, treatment and prognosis, even in patients presented with edema or renal failure at the time of
biopsy.
Keywords: renal biopsy, glomerulopathy, nephrotic syndrome
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh thiết thận là một công cụ chẩn đoán vô
cùng quan trọng trong ngành thận học. Kết quả
mô học chẳng những giúp chẩn đoán chính xác,
điều trị kịp thời mà còn giúp tiên lượng bệnh(7).
Tại bệnh viện Nhân dân Gia định, sinh thiết
thận đã áp dụng từ lâu với sinh thiết bằng kim
Vim‐Silvermann. Từ năm 2007, bệnh viện bắt
đầu trang bị Súng tự động Bard Magmum, kết
hợp kim riêng biệt gắn vào súng, đã mở ra một
thời kỳ mới giúp sinh thiết thận dễ dàng hơn, có
thể áp dụng cho những bệnh nhân còn phù
nhiều, và ít tai biến hơn so với phương pháp cũ.
Năm 2009, tác giả Nguyễn Thế Thành đã báo
cáo ứng dụng súng tự động để sinh thiết thận
qua da, tuy nhiên số lượng còn ít(16). Từ năm
2011, việc sinh thiết được tiến hành thường quy
hơn. Vì vậy, chúng tôi tiến hành tổng kết những
trường hợp sinh thiết được trong hai năm qua
nhằm chuẩn hóa quy trình sinh thiết thận, cũng
như nhận xét về bệnh học bệnh lý cầu thận tại
Bệnh viện Nhân dân Gia định.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu kỹ thuật, kết quả đạt được,
biến chứng của sinh thiết thận qua da bằng súng
tự động dưới hướng dẫn siêu âm.
Khảo sát dịch tể học bệnh lý cầu thận dựa
trên kết quả giải phẫu bệnh của sinh thiết thận
tại một bệnh viện tuyến thành phố.
Nhận xét các chỉ định sinh thiết thận và
kết quả tương ứng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được sinh thiết thận tại
khoa Nội tiết ‐ Thận Bệnh viện Nhân dân Gia
định từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 3 năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu, mô tả hàng loạt ca.
Các bước tiến hành
Tất cả bệnh nhân được thăm khám lâm
sàng, ghi nhận các triệu chứng: phù, tăng huyết
áp, tiểu máu, tổn thương các cơ quan khác; và
các xét nghiệm cận lâm sàng bao gồm: Tổng
phân tích nước tiểu, cặn lắng nước tiểu, đạm
niệu 24 giờ, Ure, creatinin máu, C3, C4 máu,
Kháng thể kháng nhân, HBsAg, Anti HCV, anti
HIV, Công thức máu, TQ, TCK, ANCA, siêu âm
đánh giá kích thước hai thận.
Ngày sinh thiết, bệnh nhân ký cam kết, được
giải thích về thủ thuật, cách hít thở sâu, tiền mê
bằng Atropin 0,25mg 1ống tiêm bắp, Diazepam
5mg 1viên uống 30 phút trước khi làm thủ thuật.
Bệnh nhân nằm sấp trên gối đệm cao khoảng
10cm. Bác sĩ siêu âm và sinh thiết cùng chọn
điểm sinh thiết, thường ở cực dưới thận trái, sau
đó bệnh nhân được gây tê bằng Lidocain 2% ở
phần da, mô dưới da, dọc theo đường đi của
kim, và gây tê vỏ thận bằng kim chọc dò dịch
não tủy số 20. Các bệnh nhân được sinh thiết
thận qua da bằng súng tự động (Bard Corp
Magmum, USA), kim gắn rời số 16G, dưới
hướng dẫn trực tiếp siêu âm, lấy 2 mẫu bệnh
phẩm cố định trong dung dich Formol 10% đệm
trung tính, sau đó gửi trực tiếp đến khoa Giải
phẫu bệnh Bệnh viện Nhân dân Gia định. Các
mẫu sinh thiết được ngấm paraffin và cắt mỏng
thành các tiêu bản 2 – 3 microns và được xem
dưới kính hiển vi quang học sau khi nhuộm
hematoxylin‐eosin, periodic acid‐Schiff (PAS),
trichrome và nhuộm bạc đồng thời xem dưới
kính hiển vi huỳnh quang sau khi nhuộm hóa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 67
mô miễn dịch với các kháng thể kháng IgG, IgA,
IgM, C3, C1q, Fibrinogen, Kappa, Lambda và
albumin làm chứng nền. Kết quả giải phẫu bệnh
được xem là có ý nghĩa nếu có ít nhất 5 cầu thận
trên mẫu sinh thiết. Kết quả đuợc đọc bởi BS
Nguyễn Tấn Sử và ThS Trần Hiệp Đức Thắng
khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Nhân dân Gia
định. Các kết quả đưa ra luôn có sự bàn bạc và
trao đổi giữa Bác sĩ lâm sàng và giải phẫu bệnh.
Sau sinh thiết, bệnh nhân được nằm nghỉ tại
giường trong vòng 24 giờ, theo dõi Mạch, huyết
áp, tình trạng tiểu máu, đau bụng nếu có, và
siêu âm lại trong vòng 24 giờ sau để theo dõi
tình trạng tụ máu sau sinh thiết nếu có.
Hình 1: Xác định vị trí sinh thiết
Hình 2: Kim sinh thiết vào đúng vỏ thận
Các định nghĩa dùng trong nghiên cứu
Hội chứng thận hư (HCTH) nếu có tiểu đạm
lớn hơn hoặc bằng 3,5g/24 giờ/1,73m2 da, giảm
albumin máu dưới 30g/l, phù và tăng lipid
máu(8). Tiểu máu nếu có trên 5 hồng cầu trong
quang trường 40 hoặc trên 5000 hồng cầu/phút
trong xét nghiệm cặn Addis. Suy thận nếu có độ
lọc cầu thận ước đoán nhỏ hơn
60mL/phút/1,73m2da. Suy thận cấp nếu tăng
creatinin huyết thanh trên 0,3 mg/dL so với mức
nền trong vòng 48 giờ, hoặc tăng creatinin huyết
thanh lên gấp rưỡi so với mức nền trước đó 7
ngày hoặc thể tích nước tiểu nhỏ hơn
0,5mL/kg/giờ trong vòng 6 giờ(11).
Công thức ước đoán độ lọc cầu thận của EPI:
eGFR (mL/phút/1,73m2 da) = 141 x min
(SCr/K, 1)α max (SCr/K, 1)‐1.209 x 0.993tuổi x
1.018 (nếu là nữ) x 1.159 (nếu là nam)
Trong đó: K = 0.7 đối với nữ, K=0.9 đối với
nam, α = ‐0.329 đối với nữ, α = 0.411 đối với
nam
Các chỉ định sinh thiết thận qua da: Hội
chứng thận hư nguyên phát, Hội chứng thận hư
thứ phát (riêng đối với bệnh thận do Đái tháo
đường chỉ sinh thiết thận khi nghi ngờ hội
chứng thận hư do nguyên nhân khác đi kèm
trên bệnh nhân Đái tháo đường), viêm cầu thận
mạn, tiểu máu vi thể kéo dài loại trừ bệnh lý
đường niệu, suy thận cấp nghi do nguyên nhân
cầu thận.
Các biến chứng của sinh thiết
Biến chứng nặng: bệnh nhân sau sinh thiết
cần phải can thiệp truyền máu, hoặc làm thuyên
tắc động mạch để cầm máu, cắt thận, dò động
tĩnh mạch, chọc nhầm tạng khác trong ổ bụng.
Biến chứng nhẹ gồm có tiểu máu đại thể tự cầm
sau nằm nghỉ không cần truyền máu, hoặc máu
tụ lượng ít không cần phải can thiệp(7).
Xử lý thống kê
Các biến liên tục được trình bày giá trị trung
bình, độ lệch chuẩn nếu có phân phối chuẩn,
nếu không sẽ trình bày trung vị và tứ phân vị.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16,0, p
có ý nghĩa thống kê nếu nhỏ hơn 0,05.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 68
Trong thời gian từ tháng 3 năm 2011 đến
tháng 3 năm 2013, chúng tôi sinh thiết được tất
cả 75 trường hợp, có thời gian khởi bệnh trung
vị 3 tháng(2,13). Tuổi trung bình 34,9 ± 14,7, tuổi
nhỏ nhất là 14, lớn nhất 73, trong đó có 5 bệnh
nhân trên 60 tuổi, chiếm tỉ lệ 6,7%. Về giới
tính, nam có 29 bệnh nhân (tỉ lệ 38,7%), nữ 46
bệnh nhân (tỉ lệ 61,3%).
Về đặc điểm lâm sàng, đa số bệnh nhân
còn phù vào thời điểm sinh thiết gồm 61 bệnh
nhân (tỉ lệ 81,3%), tăng huyết áp có 35 bệnh
nhân (tỉ lệ 46,7%).
Về đặc điểm cận lâm sàng, không có bệnh
nhân tiểu máu đại thể, tiểu máu vi thể có 56
bệnh nhân chiếm tỉ lệ 74,7%. Tiểu đạm trung
bình 6,2± 3,8 g/24 giờ [0,5‐23]. Creatinine máu
trung bình 1,36 ± 1 mg/dL [0,45‐5,4], độ lọc cầu
thận ước đoán trung bình 79,3 ± 3,6
mL/phút/1,73m2 da [9,6‐147,9]. Có 22 bệnh nhân
suy thận vào thời điểm sinh thiết, chiếm tỉ lệ
29,3%. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi
không có bệnh nhân nào lọc thận nhân tạo trước
sinh thiết.
Về chỉ định sinh thiết, có 43 trường hợp hội
chứng thận hư nguyên phát (tỉ lệ 57,3%) (trong
số này có 4 trường hợp có bệnh đái tháo đường
đi kèm), 1 trường hợp nghi ngờ HCTH thứ phát
sau ung thư phổi (1,3%), 1 trường hợp HCTH đi
kèm bệnh viêm gan siêu vi B (1,3%), 3 trường
hợp đi kèm viêm gan siêu vi C (4%), 21 trường
hợp viêm thận do Lupus (28%), 2 trường hợp
viêm cầu thận mạn (2,7%) và 4 trường hợp suy
thận cấp (5,4%).
Về kỹ thuật sinh thiết, tất cả các bệnh nhân
đều được sinh thiết thận trái, có số lần đâm kim
trung bình mỗi bệnh nhân là 2 lần (71/75 bệnh
nhân 94,7%, 3 bệnh nhân được đâm kim 3 lần
(4%), và 1 bệnh nhân được đâm kim 4 lần. Tất cả
đều lấy được mẫu, trong đó có 72 (96%) bệnh
nhân lấy được 2 mẫu, 3 bệnh nhân lấy được 1
mẫu (4%). Số cầu thận lấy được trung bình mỗi
bệnh nhân là 20,8 ± 7,8 [4‐43]. Chỉ có 1 bệnh
nhân lấy được 4 cầu thận, không đạt tiêu chuẩn
để có kết quả giải phẫu bệnh (1,3%). Như vậy, tỉ
lệ thành công của sinh thiết thận là 98,7%.
Không có bệnh nhân bị biến chứng nặng phải
truyền máu hoặc can thiệp thủ thuật, hoặc phẫu
thuật sau sinh thiết. Có 2 bệnh nhân bị biến
chứng nhẹ (tỉ lệ 2,6%) bao gồm 1 bệnh nhân bị
tiểu máu đại thể 1 giờ sau sinh thiết và tự cầm
trong vòng 24 giờ sau, không cần truyền máu,
không thay đổi Hematocrit và Hemoglobin; 1
bệnh nhân bị tụ máu cực dưới thận trái, bị đau
nhiều phải dùng thuốc giảm đau, và nằm nghỉ
tiếp tục trong vòng 3 ngày, Hemoglobin giảm từ
14g/dL xuống còn 13 g/dL sau 3 ngày, nhưng
sau đó khối máu tụ không tăng kích thước, bệnh
nhân ổn định, không cần truyền máu và không
cần can thiệp thủ thuật sau sinh thiết. Cả hai
bệnh nhân này được siêu âm Doppler mạch
máu thận sau 1 tháng, không phát hiện dò động
tĩnh mạch thận.
Về kết quả giải phẫu bệnh, chúng tôi thu
được kết quả như trong bảng 1.
* Trong 5 bệnh nhân Đái tháo đường, có 2
bệnh nhân lâm sàng nghi ngờ HCTH nguyên
phát đi kèm trên bệnh thận Đái tháo đường vì
có HCTH diễn tiến nhanh, không phù hợp diễn
tiến bệnh thận Đái tháo đường. Kết quả 2 bệnh
nhân này cho thấy có 1 bệnh nhân bị bệnh thận
Đái tháo đường thực sự, 1 bệnh nhân bị xơ chai
cầu thận khu trú từng vùng. 2 bệnh nhân được
sinh thiết vì suy thận cấp hoặc suy thận tiến
triển nhanh; kết quả cho thấy có 1 bệnh nhân bị
viêm cầu thận tăng sinh màng kèm viêm ống
thận mô kẽ cấp, tổn thương do Đái tháo đường
giai đoạn sớm, 1 bệnh nhân bị xơ chai cầu thận
khu trú từng vùng, kèm xơ hóa toàn bộ trên 50%
số cầu thận. 1 bệnh nhân bị Đái tháo đường týp
1, sinh thiết thận vì viêm thận do Lupus; kết quả
chứng minh viêm thận do Lupus Class IV mà
không có tổn thương do Đái tháo đường.
Sau khi tổng hợp lâm sàng, cận lâm sàng và
giải phẫu bệnh, chúng tôi có 74 trường hợp cho
được kết quả bệnh học cuối cùng như sau: bệnh
cầu thận nguyên phát có 47 trường hợp, chiếm tỉ
lệ 63,5%, bệnh cầu thận thứ phát có 27 trường
hợp chiếm tỉ lệ 36,5%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 69
Bảng 1: Tương quan giữa biểu hiện lâm sàng và kết quả giải phẫu bệnh
Chẩn đoán lâm sàng Số trường hợp Kết quả giải phẫu bệnh
HCTH nguyên phát 43
1 trường hợp không đủ cầu thận.
Các trường hợp khác xin xem Bảng 2
HCTH kèm Đái tháo đường* (5) 2 FSGS, 1 MPGN, 1 viêm thận do Lupus Class IV, 1 bệnh thận do Đái tháo đường
HCTH kèm Viêm gan siêu vi B 1 1 MGN
HCTH kèm viêm gan siêu vi C 3 2 FSGS, 1 MPGN
HCTH kèm ung thư phổi 1 1 MPGN
Viêm thận do Lupus 21
1 viêm thận do Lupus Class I (4,8%)
16 viêm thận do Lupus Class IV (76,2%)
4 viêm thận do Lupus Class V (19%)
Viêm cầu thận mạn 2 1 bệnh thận IgA
1 MCD
Suy thận cấp 4
1 Viêm thận do Lupus Class IV
1 MPGN + Viêm ống thận mô kẽ cấp
1 FSGS + Viêm ống thận mô kẽ cấp
Ghi chú: MCD (Minimal Change Disease): Sang thương tối thiểu, FSGS (Focal Segmental Glomerulosclerosis): Xơ chai
cầu thận khu trú từng vùng, MGN (Membranous Glomerulonephropathy): bệnh cầu thận màng, MPGN
(Membranoproliferative Glomerulonephritis): viêm cầu thận tăng sinh màng.
Bảng 2: Kết quả giải phẫu bệnh các trường hợp sinh
thiết thận vì HCTH nguyên phát
Loại sang thương Số trường hợp Tỉ lệ %
Sang thương tối thiểu 8 18,8%
Xơ chai cầu thận khu trú từng
vùng 9 20,9%
Bệnh cầu thận màng 6 13,9%
Viêm cầu thận tăng sinh màng 4 9,3%
Bệnh thận IgA 5 11,6%
Bệnh thận IgM 7 16,3%
Bệnh thận do Đái tháo đường 1 2,3%
Hậu nhiễm 1 2,3%
Xơ hóa cầu thận 1 2,3%
Hoại tử ít lắng đọng miễn dịch 1 2,3%
Bảng 3: Kết quả bệnh học các trường hợp bệnh cầu
thận nguyên phát:
Loại sang thương Số trường hợp Tỉ lệ %
Sang thương tối thiểu 9 19,1%
Xơ chai cầu thận khu trú từng
vùng 11 23,4%
Bệnh cầu thận màng 6 12,7%
Viêm cầu thận tăng sinh màng 5 10,6%
Bệnh thận IgA 6 12,7%
Bệnh thận IgM 7 15,2%
Hậu nhiễm 1 2,1%
Xơ hóa cầu thận 1 2,1%
Hoại tử ít lắng đọng miễn dịch 1 2,1%
Bảng 4: Kết quả bệnh học các trường hợp bệnh cầu
thận thứ phát:
Loại sang thương Số trường hợp Tỉ lệ %
Viêm thận do Lupus
Trong đó, có 1 ca Class I, 17 ca
Class IV, 4 ca Class V
22 81,5%
Bệnh thận do Đái tháo đường 1 3,7%
HCTH thứ phát sau K phổi
(MPGN) 1 3,7%
HCTH thứ phát sau viêm gan
siêu vi B (MGN) 1 3,7%
HCTH thứ phát sau viêm gan
siêu vi C (MPGN) 1 3,7%
Viêm cầu thận hậu nhiễm 1 3,7%
BÀN LUẬN
Cùng với sự ra đời của súng sinh thiết tự
động, và kim gắn rời có chiều dài kim dài hơn
kim Silvermann giúp cho việc sinh thiết dễ dàng
hơn, có thể thực hiện trên những đối tượng mà
trước đây chúng tôi không thể thực hiện được
sinh thiết như phù nhiều, suy thận, tuổi cao.
Sinh thiết được thao tác dưới hướng dẫn siêu
âm, do không có bộ gá gắn kim, nên Bác sĩ siêu
âm và Bác sĩ sinh thiết cùng điều chỉnh sao cho
mặt cắt của đầu dò siêu âm trùng với kim,
hướng kim xéo so với mặt phẳng đứng ngang cơ
thể nên có thể thấy rõ đường đi của kim và đầu
kim chạm vào vỏ thận. Điều này giúp cho tỉ lệ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 70
thành công cao và ít gây ra biến chứng. Nhóm
nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ thành công cao
98,7%, tất cả đều lấy được mẫu, chỉ có một
trường hợp lấy được 1 mẫu và có 4 cầu thận
không đủ xếp loại mô học. Trường hợp này,
bệnh nhân nữ 28 tuổi, bị hội chứng thận hư
kháng corticoides kèm suy thận với độ lọc cầu
thận ước đoán là 38,3 mL/phút/1,73m2 da, trên
siêu âm kích thước hai thận còn bình thường,
tuy nhiên phân biệt ranh giới vỏ tủy không rõ
do đó, mặc dù thấy rõ kim chạm vào vỏ thận
trên siêu âm nhưng sau 4 lần cố gắng chỉ lấy
được một mảnh mô nhỏ có 4 cầu thận, mô bở,
vụn. Tỉ lệ thành công của chúng tôi cũng tương
đối đồng nhất với các nghiên cứu trong nước
như của Trần Thị Bích Hương(97,05%)(19),
Huỳnh Thoại Loan(95%)(8), cũng như các nghiên
cứu của nước ngoài: Mishra 2011(95,3%)(13),
Ahmed 2003(97,5%)(1), Song JH 1998 (96‐99%)(18).
Phần lớn (81,3%) số bệnh nhân trong nghiên cứu
chúng tôi còn phù tại thời điểm sinh thiết, với
thời gian khởi bệnh trung vị là 2 tháng. Điều
này, chứng tỏ chúng tôi cũng cố gắng đi theo xu
hướng của thế giới, sinh thiết thận sớm ngay cả
khi bệnh nhân còn phù nhiều, để có kết quả giải
phẫu bệnh sớm, định hướng điều trị, tránh cho
bệnh nhân phải trải qua thời gian điều trị thử vô
ích và chịu nhiều tác dụng phụ. Nghiên cứu của
Trần Thị Bích Hương(19), tác giả đã thực hiện
sinh thiết an toàn 14 trường hợp suy thận tiến
triển nhanh, đã lọc thận nhân tạo, nhưng kích
thước thận còn tốt trên siêu âm, giúp cải thiện
điều trị và đưa một số bệnh nhân ra khỏi lọc
thận. Nghiên cứu của chúng tôi mặc dù không
có bệnh nhân nào lọc thận nhân tạo trước sinh
thiết nhưng chúng tôi đã cố gắng sinh thiết trên
22/75 (29,3%) bệnh nhân bị suy thận với kích
thước thận và độ phân biệt vỏ tủy còn tốt trên
siêu âm với tỉ lệ thành công cao. Đặc biệt có
trường hợp bệnh nhân bị suy thận tiến triển
nhanh với độ lọc cầu thận ước đoán lúc sinh
thiết chỉ còn 9,4 mL/phút/1,73 m2