Sở hữu chéo vốn cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

Việc tổ chức, cá nhân tham gia sở hữu chéo vốn cổ phần tại nhiều ngân hàng cũng có mặt tích cực là có thêm nhiều kinh nghiệm để điều hành kinh doanh, phân tán rủi ro vốn sở hữu. Mặt khác, sở hửu chéo vốn cổ phần cũng đang là nguyên nhân của một số rủi ro ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Đối với quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, sở hửu chéo vốn cổ phần là một trong những vấn đề cần quan tâm xử lý hàng đầu, mà công tác giải quyết nợ xấu, cũng như tăng cường minh bạch hoạt động của hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự chồng chéo, thiếu minh bạch trong việc sở hữu vốn cổ phần trong các ngân hàng không đúng năng lực tài chính thực sự của tổ chức, cá nhân tham gia làm phát sinh nhiều hệ lụy như việc họ lợi dụng uy tín ông chủ để trục lợi cho tổ chức, cá nhân mình. Tư duy kinh doanh không phải vì thích sở hữu ngân hàng mà ẩn đằng sau nó là việc sử dung vốn huy động giá rẻ từ ngân hàng để cung cấp vốn cho các công ty sân sau nhằm tìm kiếm lợi ích kinh tế lớn hơn; Riêng bản thân các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) này tiềm ẩn những rủi ro lớn hơn bắt đầu từ đây điều này đặt ra bài toán cho các nhà nghiên cứu, nhà quản trị ngân hàng phải tìm lời giải đáp để hóa giải sự tồn tại bất cập này.

pdf7 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sở hữu chéo vốn cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật SỞ HỮU CHÉO VỐN CỔ PHẦN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Hoàng Thị Thanh Hằng* TÓM TẮT Việc tổ chức, cá nhân tham gia sở hữu chéo vốn cổ phần tại nhiều ngân hàng cũng có mặt tích cực là có thêm nhiều kinh nghiệm để điều hành kinh doanh, phân tán rủi ro vốn sở hữu. Mặt khác, sở hửu chéo vốn cổ phần cũng đang là nguyên nhân của một số rủi ro ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Đối với quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, sở hửu chéo vốn cổ phần là một trong những vấn đề cần quan tâm xử lý hàng đầu, mà công tác giải quyết nợ xấu, cũng như tăng cường minh bạch hoạt động của hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự chồng chéo, thiếu minh bạch trong việc sở hữu vốn cổ phần trong các ngân hàng không đúng năng lực tài chính thực sự của tổ chức, cá nhân tham gia làm phát sinh nhiều hệ lụy như việc họ lợi dụng uy tín ông chủ để trục lợi cho tổ chức, cá nhân mình. Tư duy kinh doanh không phải vì thích sở hữu ngân hàng mà ẩn đằng sau nó là việc sử dung vốn huy động giá rẻ từ ngân hàng để cung cấp vốn cho các công ty sân sau nhằm tìm kiếm lợi ích kinh tế lớn hơn; Riêng bản thân các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) này tiềm ẩn những rủi ro lớn hơn bắt đầu từ đây điều này đặt ra bài toán cho các nhà nghiên cứu, nhà quản trị ngân hàng phải tìm lời giải đáp để hóa giải sự tồn tại bất cập này. Từ khóa: sở hữu chéo, vốn cổ phần CROSS-OWNERSHIP OF EQUITY CAPITAL OF VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS IN RECENT YEARS ABSTRACT In Vietnamese banking system, the organizations and individuals involved in cross-ownership of equity capital, which have positive side effects of more experiences for business executives, as well as risk dispersion of equity capital. On the other hand, cross-ownership of equity capital is also the cause of a number of banking risks that can negatively affect the safety and soundness of banking system. Nowadays, for the restructuring commercial banking system in Vietnam, cross- ownership of equity capital is one of the issues, which need to pay first attention to treatment in, associated with settlement for bad debt as well as strengthening, transparency in banking system is essential. However, negative side effects of cross-ownership of equity capital are the overlap, lack of transparency, improperly financial capacity of organizations, and individuals involved that raises many consequences as they take advantage of owner’s reputation for their profits and for organization. Business thinking is not as interested in owning bank, behind using of cheap deposits from banks finance capital for “backyard” companies to get greater economic benefits; specially, these commercial banks have greater implicit risks beginning here ... that poses problems for researchers, bank administrators must find an answer to the existence of these shortcomings. Keywords: cross-ownership, equity * TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP. HCM 37 Sở hữu chéo . . . 1. Đặt vấn đề Vốn cổ phần lớn, thể hiện năng lực tài chính mạnh của một NHTMCP. Năng lực tài chính của NHTMCP sẽ quyết định quy mô hoạt động, mạng lưới và chiến lược kinh doanh cũng như vai trò quản trị hệ thống ngân hàng. Sở hữu chéo vốn cổ phần trong hoạt động ngân hàng, được hiểu là một tổ chức, cá nhân đang có vốn sở hữu tại một số ngân hàng khác nhau, có thể đang cùng một lúc điều hành, quản trị hoặc cử người tham gia tại nhiều ngân hàng. Trong thực tiễn Việt Nam, trước khi có hệ thống ngân hàng cổ phần, Chính phủ đã chủ trương phải có đại diện của mình trong mỗi ngân hàng và các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã được lựa chọn để góp vốn với tư cách cổ đông nhà nước. Sự hiện diện của những ngân hàng quốc doanh mà nay gọi là ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) nhằm mục đích hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý nếu có cũng như những yếu kém ban đầu từ phía các ngân hàng cổ phần mới được thành lập. Trong bối cảnh bấy giờ, sự thận trọng này là cần thiết. Ngoài ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, các NHTMNN lớn đã chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh, quản trị thậm chí chia sẻ cả nguồn nhân lực với tất cả các NHTMCP mà họ tham gia góp vốn. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, ảnh hưởng của các hình thức sở hữu chéo cũng có nhiều biến đổi. Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ nắm giữ giữa các tổ chức, cá nhân, vai trò của các cổ đông và công tác giám sát vai trò này là những vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hệ chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang tính biến động cao, kết hợp với nguồn thông tin hạn chế. Trước hết, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các NHTM. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng còn tồn tại những quan hệ ràng buộc phức tạp về mặt sở hữu khi mà các ngân hàng có những công ty con, công ty liên kết và những công ty này cũng nắm giữ cổ phiếu ngân hàng đang tạo ra những hệ lụy tác động trực tiếp đến tính ổn định và lành mạnh của hệ thống. 2. Thực trạng các hình thức sở hữu chéo hiện nay Theo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc Hội công bố, vấn đề sở hữu chéo giữa các TCTD ở Việt Nam ngày càng trở nên nghiêm trọng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải ngân vốn dựa trên quan hệ thay vì hiệu quả sử dụng. Theo báo cáo này, sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể chia thành sáu nhóm: Thứ nhất, sở hữu của các NHTMNN và NHTM nước ngoài tại các NH liên doanh; Thứ hai, cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM - cả nhà nước lẫn cổ phần; Thứ ba, cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ; Thứ tư, sở hữu của các NHTMNN tại các NHTMCP; Thứ năm, sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP; Thứ sáu, sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân. Nhận định và đánh giá trong các mối quan hệ trên, ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì các mối quan hệ này chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Mối bận tâm của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu là mối quan hệ ở ba nhóm sau. 38 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Khi các NHTMNN là cổ đông lớn của các NHTMCP, các NHTMNN có thể ảnh hưởng đến các ngân hàng thuộc nhóm sau trong việc cung cấp vốn cho các DNNN. Với trường hợp các NHTM có cổ đông lớn là các doanh nghiệp, rất có thể các NHTM này trở thành sân sau, chuyên huy động vốn từ dân để tài trợ cho các dự án của doanh nghiệp cổ đông. Mặc dù theo quy định, các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn nhưng các ngân hàng có thể lách quy định bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn. Tương tự, việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng có quan hệ sở hữu chéo khác. Như vậy, ba trường hợp sở hữu này đều có nguy cơ dẫn đến việc các NHTM sẽ tiến hành thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng. Nếu điều này xảy ra, đây có thể coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng cao. Bởi vì, chúng ta cũng thấy rằng: - Sở hữu của các NHTMNN tại các NHTMCP: Do ảnh hưởng trong giai đoạn khủng hoảng 1997-1998, một số NHTMCP đã bộc lộ một số yếu kém về kinh doanh và năng lực tài chính, khả năng thanh khoản nên sự hiện diện của NHTMNN tại các NHTMCP theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã xuất hiện để góp phần ổn định hệ thống ngân hàng. Hiện có 8 NHTM cổ phần có quan hệ cổ phần với bốn NHTMNN. Ví dụ như là Vietcombank hiện đang sở hữu 11% tại Ngân hàng Quân đội, 8,2% tại Eximbank, 4,7% tại Ngân hàng Phương Đông, 5,3% tại Ngân hàng Sài Gòn. Trường hợp khác, Agribank hiện đang sở hữu 15% tại Maritime Bank (cổ phần gián tiếp thông qua Agriseco), 11% tại Saigonbank. Còn VietinBank cũng sở hữu 11% cổ phần tại Saigonbank. - Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP: Đây là một hình thức sở hữu khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, đang có 6 NHTMCP có cổ đông là một NHTMCP khác. Chẳng hạn, như Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại Ngân hàng Việt Á; ACB đang sở hữu 20% cổ phần tại Eximbank, 10,8% ở ngân hàng Đại Á, 10% ở ngân hàng Việt Nam Thương Tín; 6,1% ở ngân hàng Kiên Long (thông qua Công ty Chứng khoán ACBS). - Sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân: Rất nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước tham gia góp vốn hình thành các TCTD. Hầu hết các tập đoàn nhà nước đều có các công ty tài chính. Mối quan hệ giữa NHTMCP với các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Vì có nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn đồng thời lãnh đạo ở các doing nghiệp khác. Trong đó, đặc biệt nổi bật là việc sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân hiện nay như: Tập đoàn Bảo Việt sở hữu 52% cổ phần của NHTMCP Bảo Việt; Viettel sở hữu 10%, Tổng công ty Trực thăng Việt Nam sở hữu 7,2% , Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn sở hữu 5,7% cổ phần của ngân hàng Quân Đội; EVN sở hữu 25,4% cổ phần của ABBank; Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn cao su Việt Nam đều sở hữu 9,3% cổ phần của SHB; Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam sở hữu 20% cổ phần của Oceanbank; Agribank sở hữu 15% Maritime bank, 10,2% của ngân hàng Phát triển Mê Kông, 8,9% của ngân hàng Quân đội. VNPT sở hữu 12,5% Maritime bank, 6,1% cổ 39 Sở hữu chéo . . . phần của Oceanbank, 6% cổ phần của ngân hàng Bưu điện Liên Việt và Vinalines sở hữu 5,3% cổ phần của Maritime bank. Mặc dù các Tập đoàn, Tổng công ty nắm giữ số lượng cổ phần tương đối lớn tại các NHTMCP nhưng lại trực tiếp không tham gia quản trị điều hành trong khi vai trò quản trị điều hành và thâu tóm lại thuộc về nhóm lợi ích hoặc một vài cá nhân đại diện thao túng. Như chúng ta biết, sự biến tướng sở hữu chéo vốn cổ phần trong các NHTMCP có liên quan đã đưa đến nhiều mối quan hệ mà cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng cần phải quan tâm giải quyết, nhằm làm minh bạch năng lực tài chính của những tổ chức, cá nhân có nhiều sở hữu vốn cổ phần tại một số ngân hàng, tránh bị rơi vào tình trạng để họ lũng đoạn, gây nên những biến động ảnh hưởng xấu đến hệ thống ngân hàng hiện nay. Tình trạng sở hữu chéo cổ phần đang đưa tới việc tạo ra những liên minh ngân hàng, khiến cho việc quản lý trở nên phức tạp. Nếu không được kiểm soát đúng mức, rủi ro hệ thống không phải là không có. Một trong những ưu tiên của tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế đó chính là tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại. Trong đó giải quyết nợ xấu và sâu xa hơn là giải quyết tình trạng sở hữu chéo là vấn đề được nhiều người quan tâm thời điểm này. Theo quy định, một cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, một cổ đông là tổ chức không được sở hữu quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng... nhằm hạn chế sự thâu tóm ngân hàng trái pháp luật. Song, khi sở hữu chéo thì quy định này sẽ bị vô hiệu hóa. Bởi lẽ, sở hữu chéo cho phép một doanh nghiệp, hay NHTM, có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM khác có thể gây áp lực để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án của doanh nghiệp hay ngân hàng “sân sau” của mình, điều này sẽ dẫn đến nguy cơ là quy định giới hạn tín dụng bị “vượt rào”, bộ máy đánh giá, sàng lọc tiêu chí theo hiệu quả đầu tư của NHTM bị vô hiệu. Các quy định về các đối tượng cấm cho vay, hạn chế cho vay cũng sẽ bị ảnh hưởng. Chẳng hạn, pháp luật không cho phép TCTD cho vay đối với Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, người thân của họ và một số đối tượng khác. Tuy nhiên, những người này lại có thể vay ở TCTD khác mà tổ chức của mình là cổ đông lớn. Sở hữu chéo cũng giúp các ngân hàng có thể lách quy định về việc không được cho các cổ đông của mình vay vốn bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn. Và một thực tế, trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng thương mại rất dễ biến thành kênh huy động vốn cho Tập đoàn, các công ty con là “mạng nhện” liên kết còn thể hiện ở những hoạt động kinh doanh thiếu kiểm soát, sự nhập nhằng trong việc cho vay, trong thẩm định và cấp phát vốn vay và làm gia tăng rủi ro tín dụng, phát sinh tiềm ẩn nợ xấu ngân hàng. Rủi ro thị trường tài chính ngân hàng mang tính hệ thống, dù rủi ro ấy ban đầu chỉ xuất phát từ một vài tổ chức riêng lẻ. Vì đó là quan hệ giữa dòng tiền với nền sản xuất kinh tế thực. Rủi ro này khi vỡ, từ quan hệ “lằng nhằng” do sở hữu chéo giữa các ngân hàng, thì không chỉ lan tỏa đối với hệ thống sản xuất kinh doanh ngoài ngân hàng mà ngay cả trong ngân hàng. Theo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban kinh tế Quốc hội thì hiện nay, gần 40 doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu trên 5% tại các NHTMCP và các doanh nghiệp này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính. Vì vậy, mối quan hệ giữa NHTMCP với các tập đoàn cổ phần tư nhân ngày càng phức tạp. 40 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn đang là lãnh đạo ở các doanh nghiệp khác. Các ngân hàng có thể nắm cổ phần của nhau thông qua những công ty chứng khoán hoặc quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính. Có chuyên gia kinh tế cho rằng “Một thực tế là công ty đầu tư tài chính tại Việt Nam lại là một doanh nghiệp bình thường, không bị điều tiết bởi quy định đặc biệt nào, không phải công bố thông tin trong khi họ hoạt động không khác gì một quỹ đầu tư hay công ty chứng khoán. Ví dụ mới đây nhất của hình thức này là cách tạo tiền cấp số nhân của ông Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) để sở hữu cổ phần tại nhiều ngân hàng vừa được cơ quan điều tra phanh phui. Theo đó, bầu Kiên thành lập các công ty đầu tư tài chính và sử dụng những pháp nhân này để vay tiền ngân hàng. Với phần lớn số tiền này, ông và người thân trong gia đình gom thêm cổ phần tại một ngân hàng thứ hai rồi dùng chính số cổ phần trên thế chấp cho khoản vay tại ngân hàng đầu tiên. Cuối cùng, tiền chạy lòng vòng và giá trị thực ít hơn rất nhiều con số vốn cổ phần ảo do mối quan hệ sở hữu phức tạp. Hình thức sở hữu chéo tiếp theo là việc một hoặc nhiều nhà đầu tư lớn nắm một lúc nhiều ngân hàng, công ty chứng khoán. Theo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng – NHNN, luật Các TCTD năm 2010 không cho phép các TCTD sở hữu cổ phần lẫn nhau (Khoản 5 Điều 129); không cho phép các công ty con, công ty liên kết của một TCTD được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó (Khoản 2 Điều 135). Tuy nhiên do yếu tố lịch sử, trên thực tế, hiện vẫn còn một số TCTD góp vốn tại nhiều TCTD khác hoặc có sở hữu cổ phần lẫn nhau (xảy ra từ trước khi Luật Các TCTD năm 2010 có hiệu lực) hoặc có một số trường hợp TCTD thông qua các công ty con của mình sở hữu cổ phần của TCTD khác (gọi chung là các TCTD “có liên quan”). a. Những lợi ích của sở hữu chéo - Sở hữu được nhiều ngân hàng, nên dễ linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình, cũng như các công ty con của mình. - Quy mô vốn sở hữu, năng lực tài chính lớn sẽ giúp cho ngân hàng có nhiều cơ hội để cạnh tranh với các ngân hàng khác. - Nhìn nhận lại lịch sử của sở hữu chéo, ông Tomoyuki Kimura – Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam cho rằng: Bản chất sở hữu chéo không phải là xấu. Sở hữu chéo giữa ngân hàng lớn với ngân hàng nhỏ là khá phổ biến ở nhiều quốc gia. Khi có tình huống xấu xảy ra, ngân hàng lớn có thể giúp ngân hàng nhỏ bằng việc tăng cường nhân lực, tư vấn cách quản lý, điều hành Sở hữu chéo trở thành vấn đề khi nó không được quản lý chặt chẽ, gây hậu quả xấu. - Sở hữu chéo, sẽ góp phần mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý lẫn nhau, tạo nên những liên minh thanh toán, tài trợ tín dụng trong và ngoài nước nhanh gọn hiệu quả, hạn chế rủi ro tập trung tín dụng. b. Những hệ lụy của sở hữu chéo vốn cổ phần - Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng khó kiểm soát được thực chất chủ sở hữu vốn cổ phần của những ngân hàng này, khó có thể loại trừ “vốn cổ phần ảo”. Số liệu hình thức có vốn, nhưng năng lực tài chính thực chất là bị giới hạn, không đủ mạnh. - Nhiều NHTMCP bị một số nhóm nhà đầu tư thao túng, dễ trục lợi, làm giá cổ phiếu ngân hàng trên thị trường. 41 Sở hữu chéo . . . - Các chủ sở hữu vốn chéo thường sử dụng vốn đổ vào “công ty sân sau” để tìm kiếm lợi nhuận khác, hoặc với mục đích kinh doanh khác cao hơn, nên việc sử dụng tiền vay phần lớn không đúng mục đích, có phần hợp thức hóa chứng từ tiền vay làm cho hoạt động kinh doanh ngân hàng bị méo mó, khó kiểm soát. 4. Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp xử lý sở hữu chéo Một là, bắt buộc các Tập đoàn, Tổng công ty DNNN phải thoái vốn ra khỏi các ngân hàng TMCP. Để giải tỏa bớt áp lực sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng hiện nay, cơ quan quản lý có thể gây sức ép buộc các doanh nghiệp phi tài chính phải thoái vốn ra khỏi ngân hàng nhất là các DNNN. Bên cạnh đó, quá trình sáp nhập, hợp nhất ngân hàng yếu với ngân hàng mạnh để nâng cao tính minh bạch trong quản trị ngân hàng, làm rõ minh bạch của nguồn vốn cổ phần cũng được xem là một giải pháp ngăn chặn sở hữu chéo. Hai là, ngân hàng Nhà nước sẽ cho tiến hành thanh tra, đánh giá thực trạng tài chính, sở hữu cổ phần của hơn 38 ngân hàng để làm rõ vấn đề sở hữu. Theo sau đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành một số quy định mới để giải quyết, xử lý những vấn đề bất cập trong hệ thống ngân hàng. Trong năm 2013, khi các hệ thống văn bản này có hiệu lực sẽ góp phần làm cho hệ thống ngân hàng trở nên minh bạch hơn. Sự minh bạch về chính sách tiền tệ nói chung và hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Ba là, tăng tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các NHTMCP trong nước để hạn chế sở hữu chéo trong các NHTMCP trong nước. Từ quan điểm của một số nhà đầu tư nước ngoài, nếu một ngân hàng nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào một ngân hàng TMCP Việt Nam, vấn đề sở hữu chéo là một quan ngại lớn, họ chưa biết rõ người sở hữu ngân hàng là ai và sẽ rất khó cho họ đưa ra quyết định đầu tư vốn lớn vào một ngân hàng cụ thể. Sự hợp tác giữa ngân hàng nước ngoài với NHTMCP Việt Nam thông qua hình thức góp vốn, cử đại diện tham gia vào HĐQT đã mang đến ít nhiều thành công cho các trong nước. Bởi ít nhất, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng đã góp phần nâng cao tính minh bạch của tổ chức, của ngân hàng. Đại diện ANZ cho rằng việc nâng tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài liên quan đến từng trường hợp cụ thể, những tính toán trong chiến lược của các ngân hàng cũng như nhà đầu tư và theo lộ trình cụ thể của từng quốc gia. Triển vọng về việc tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam như thế nào? Theo CEO Citibank Việt Nam, động lực cho việc tăng room là có. Bởi các ngân hàng bao gồm các ngân hàng trên thế giới đều có nhu cầu vốn lớn hơn nhằm đáp ứng tiêu chuẩn Basel 3. Sự tham gia nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng trong nước có thể hỗ trợ cho cơ quan quản lý Nhà nước có thể quản lý tốt hơn hệ thống ngân hàng Việt Nam – thị trường sẽ minh bạch hơn, cũng như vấn đề sở hữu chéo và nợ xấu của các cũng được rỏ ràng hơn nhằm t
Tài liệu liên quan