1. MỞ ĐẦU
Sốc nhiễm khuẩn là tình trạng suy tuần hoàn
cấp gây giảm tưới máu các tạng, thúc đẩy phản
ứng viêm hệ thống và rối loạn chuyển hoá kéo dài,
đưa đến tình trạng suy đa tạng và tử vong [4], [9],
[18], [20].
Tỷ lệ tử vong của sốc nhiễm khuẩn (SNK) và
nhiễm khuẩn nặng (NKN) còn cao, nằm trong
nhóm nguyên nhân tử vong hàng đầu ở các nước
đang phát triển và là nhóm bệnh ngày càng tăng
ở các nước phát triển. Tỷ lệ này thay đổi tuỳ theo
điều kiện về kinh tế xã hội của từng nước, tại Mỹ
và các nước phát triển tỷ lệ này khoảng từ 10%
đến 50% [3]. Tại Việt Nam chưa có số liệu thống
kê toàn quốc, nhưng tại một số bệnh viện tỷ lệ này
là 60% ở người lớn và khoảng 70-80% cho trẻ em
[22], [23].
Nhận biết triệu chứng sớm trên lâm sàng để có
thái độ xử trí kịp thời theo triệu chứng là vấn đề
tiên quyết nhằm giảm tỷ lệ tử vong do sốc nhiễm
khuẩn. Các yếu tố tiên lượng nặng và tử vong trong
SNK cần được áp dụng trên lâm sàng để theo dõi,
đánh giá, xử trí trong điều trị SNK, chứ không chỉ
là yếu tố đánh giá tử vong của bệnh nhân. Các
bảng đánh giá tiên lượng gồm nhiều các chỉ số
giúp cho các nghiên cứu có khả năng khái quát
nhóm bệnh, từ đó đưa ra được những hướng dẫn
thực hành lâm sàng một cách chính xác. Các chỉ
số đơn lẻ có giá trị tiên lượng giúp cho theo dõi
tiến trình bệnh lý, đưa ta được những chỉ dẫn cụ
thể trong điều trị [1[, [2], [8], [18], [23].
16 trang |
Chia sẻ: thuychi11 | Lượt xem: 761 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sốc nhiễm khuẩn trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1PHẦN TỔNG QUAN
1. MỞ ĐẦU
Sốc nhiễm khuẩn là tình trạng suy tuần hoàn
cấp gây giảm tưới máu các tạng, thúc đẩy phản
ứng viêm hệ thống và rối loạn chuyển hoá kéo dài,
đưa đến tình trạng suy đa tạng và tử vong [4], [9],
[18], [20].
Tỷ lệ tử vong của sô ́c nhiê ̃m khuâ ̉n (SNK) và
nhiễm khuẩn nặng (NKN) còn cao, nằm trong
nhóm nguyên nhân tử vong hàng đầu ở các nước
đang phát triển và là nhóm bệnh ngày càng tăng
ở các nước phát triển. Tỷ lệ này thay đổi tuỳ theo
điều kiện về kinh tế xã hội của từng nước, tại Mỹ
và các nước phát triển tỷ lệ này khoảng từ 10%
đến 50% [3]. Tại Việt Nam chưa có số liệu thống
kê toàn quốc, nhưng tại một số bệnh viện tỷ lệ này
là 60% ở người lớn và khoảng 70-80% cho trẻ em
[22], [23].
Nhận biết triệu chứng sớm trên lâm sàng để có
thái độ xử trí kịp thời theo triệu chứng là vấn đề
tiên quyết nhằm giảm tỷ lệ tử vong do sốc nhiễm
khuẩn. Các yếu tố tiên lượng nặng và tử vong trong
SNK cần được áp dụng trên lâm sàng để theo dõi,
đánh giá, xử trí trong điều trị SNK, chứ không chỉ
là yếu tố đánh giá tử vong của bệnh nhân. Các
bảng đánh giá tiên lượng gồm nhiều các chỉ số
giúp cho các nghiên cứu có khả năng khái quát
nhóm bệnh, từ đó đưa ra được những hướng dẫn
thực hành lâm sàng một cách chính xác. Các chỉ
số đơn lẻ có giá trị tiên lượng giúp cho theo dõi
tiến trình bệnh lý, đưa ta được những chỉ dẫn cụ
thể trong điều trị [1[, [2], [8], [18], [23].
Nhận biết sớm và xử trí ban đầu hiệu quả bằng
các biện pháp đơn giản là tích cực bù dịch giờ
đầu, sử dụng thuốc vận mạch và tăng cường co
bóp cơ tim hợp lý giu ́p giảm tỷ lệ tử vong trong
SNK [1], [2], [10], [18], [20], [22].
2. MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA VÀ CÁC KHÁI NIỆM
TRONG SỐC NHIỄM KHUẨN TRẺ EM
Hội nghị quốc tế thống nhất về nhiễm khuẩn
trẻ em năm 2002 (International Pediatrics Sepsis
Consensus Conference - IPSCC-2002) tại San
Antonio, Texas, Hoa Kỳ gồm các nhà hồi sức Nhi
khoa của Canada, Pháp, Hà Lan, Anh và Hoa
Kỳ, đã thống nhất đưa ra các định nghĩa về hội
chứng đáp ứng viêm hệ thống, nhiễm trùng, tình
trạng nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn nặng, sốc nhiễm
khuẩn, và tiêu chuẩn chẩn đoán suy chức năng đa
cơ quan [11].
Các định nghĩa trong nhiễm khuẩn
z Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (Systemic
infl ammatory response syndrome – SIRS): có
mặt ít nhất 2/4 tiêu chuẩn, 1 trong 2 tiêu chuẩn bắt
buộc là có bất thường về thân nhiệt và bạch cầu
máu ngoại vi:
- Thân nhiệt trung tâm > 3805 hoặc < 360C.
- Nhịp tim nhanh, trên 2 độ lệch chuẩn (SD)
theo tuổi.
- Tần số thở trên 2 SD theo tuổi hoặc phải
thông khí nhân tạo do các tình trạng bệnh cấp,
không liên quan đến bệnh nhân thần kinh cơ
hoặc thuốc gây mê.
- Bạch cầu máu tăng hoặc giảm theo tuổi.
z Nhiễm trùng (Infection): Gợi ý hoặc có bằng
chứng nhiễm trùng với bất kỳ nguyên nhân nào
khi có cấy máu dương tính, nhuộm soi tươi, PCR
hoặc có hội chứng lâm sàng liên quan đến khả
năng nhiễm trùng cao. Bằng chứng của nhiễm
trùng bao gồm các dấu hiệu lâm sàng, chẩn đoán
hình ảnh hoặc các xét nghiệm (như là có bạch cầu
máu trong dịch vô khuẩn của cơ thể, thủng tạng,
Xquang lồng ngực có hình ảnh viêm phổi, ban
xuất huyết hoặc tử ban).
SỐC NHIỄM KHUẨN TRẺ EM
Trần Minh Điển, Lê Nam Trà, Phạm Văn Thắng
Bệnh viện Nhi Trung ương
TẠP CHÍ NHI KHOA 2012, 5, 4
2
z Tình trạng nhiễm khuẩn (Sepsis): SIRS + gợi ý
hoặc có mặt nhiễm trùng.
z Nhiễm khuẩn nặng (Severe sepsis): Có tình
trạng nhiễm khuẩn và một trong các dấu hiệu sau:
Suy tuần hoàn, hoặc hội chứng suy hô hấp cấp
nguy kịch, hoặc suy chức năng từ 2 tạng trở lên.
z Sốc nhiễm khuẩn (Septic shock): Có tình
trạng nhiễm khuẩn + suy tuần hoàn.
Bảng 1. Chỉ số nhịp tim, nhịp thở, HA tâm thu, bạch cầu theo nhóm tuổi [16].
Nhóm tuổi
Nhịp tim (lần/ph)* Nhịp thở
(lần/ph)*
HA tâm thu
(mmHg)
Bạch cầu máu **
BC x 103/mm3Nhanh Chậm
0 - 1 tuần > 180 50 34.0
1t - 1 tháng >180 40 19.5 hoặc <5
1th - 1năm > 180 34 17.5 hoặc < 5
2 - 5 năm >140 không ý nghĩa >22 15.5hoặc <6
6 - 12 năm >130 không ý nghĩa >18 13.5hoặc <4.5
13 - 18 năm > 110 không ý nghĩa > 14 11 hoặc < 4,5
(*): 5 percentile (bách phân vị) cho giá trị cao của nhịp tim và nhịp thở.
(**): 15 bách phân vị cho giá trị của bạch cầu máu ngoại vi.
Một số khái niệm khác [1], [4], [8], [16], [19].
- Sốc nóng: Da ấm, thời gian làm đầy mao
mạch nhanh, mạch nảy, huyết áp còn trong giới
hạn bình thường.
- Sốc lạnh: Da lạnh, thời gian làm đầy mao mạch
> 2 giây, mạch ngoại biên nhỏ, đầu chi lạnh ẩm,
nước tiểu < 1 ml/kg/giờ đã bù trên 60 ml/kg dịch
đẳng trương trong giờ đầu cấp cứu và dopamine
liều tới 10 μg/kg/phút.
- Sốc kháng với bù dịch / kháng dopamine: tình
trạng sốc kéo dài mặc dù đã bù trên 60 ml/kg dịch
đẳng trương trong giờ đầu cấp cứu và dopamine
liều tới 10 μg/kg/phút.
- Sốc kháng catecholamine: Sốc kéo dài mặc
dù đã dùng epinephrine hoặc norepinephrine.
- Sốc không hồi phục (Refractory shock): Tình
trạng sốc kéo dài, mặc dù đã hồi phục đủ dịch
và các thuốc vận mạch (thuốc co mạch và giãn
mạch), thuốc tăng co bóp cơ tim, duy trì chuyển
hoá nội môi (glucose, calci, corticoid và thyroide).
- Thoát sốc: Thời gian làm đầy mao mạch < 2
giây, mạch ngoại biên và trung tâm không khác
biệt, chi ấm, bài niệu > 1ml/kg/giờ, tri giác bình
thường. Chỉ số tim (Cardiac Index - CI) trong giới
hạn 3,3 - 6,0 l/ph/ m2, áp lực tưới máu bình thường
theo tuổi, độ bão hoà oxy máu tĩnh mạch chủ trên
hoặc máu tĩnh mạch > 70%.
Định nghĩa suy đa tạng [11],[16] [19].
- Suy tuần hoàn: Có 1 trong các dấu hiệu sau
mặc dù đã truyền tĩnh mạch ≥ 40 ml/kg dịch đẳng
trương trong 1 giờ.
+ Hạ huyết áp < 5 bách phân vị theo tuổi hoặc
huyết áp tâm thu < 2 độ lệch chuẩn theo tuổi.
+ Cần phải sử dụng thuốc vận mạch để duy trì
huyết áp trong giới hạn bình thường (dopamine >
5 μg/kg/phút hoặc dobutamine, epinephrine hoặc
norepinephrine ở bất kỳ liều nào).
+ Hai trong các triệu chứng sau:
z Toan chuyển hoá không giải thích được, kiềm
thiếu hụt > 5 mEq/l.
z Tăng laclate máu động mạch trên 2 lần giới
hạn trên.
z Thiểu niệu: Bài niệu < 0,5 ml/kg/giờ.
z Thời gian làm đầy mao mạch kéo dài > 5
giây.
z Chênh lệch nhiệt độ trung tâm / ngoại biên
trên 30C.
- Suy hô hấp: Có 1 trong các dấu hiệu sau:
+ PaO2 / FiO2 < 300 mmHg, không áp dụng cho trẻ
bị bệnh tim bẩm sinh tím hoặc bệnh phổi trước đó.
+ PaCO2 > 65 mmHg hoặc 20 mmHg trên giới
hạn trước đó.
3PHẦN TỔNG QUAN
+ Cần FiO2 > 50% để duy trì SpO2 > 92%.
+ Phải thông khí nhân tạo xâm nhập hoặc
không xâm nhập.
- Suy thần kinh trung ương: có 1 trong 2 dấu
hiệu sau:
+ Điểm Glasgow < 11 điểm.
+ Thay đổi tinh thần cấp mà có giảm điểm
Glasgow ≥ 3 điểm so trước đó.
- Rối loạn huyết học: Có 1 trong 2 dấu hiệu sau:
+ Tiểu cầu < 80.000/mm3 hoặc giảm xuống 50%
so giá trị trước đó 3 ngày ở kết quả cao nhất (cho
bệnh nhân bệnh máu mạn tính hoặc ung thư).
+ Tỷ số bình thường hóa quốc tế (International
Normalization Ratio - INR) > 2.
- Suy thận: Creatinine huyết thanh ≥ 2 lần giới
hạn trên theo tuổi hoặc gấp 2 lần so giá trị nền.
- Suy gan: 1 trong 2 tiêu chuẩn sau:
+ Bilirubine toàn phần ≥ 4 mg/dl (không áp
dụng cho trẻ sơ sinh).
+ ALT gấp 2 lần giới hạn trên theo tuổi.
3. TẦN SUẤT MẮC BỆNH VÀ TỬ VONG SỐC
NHIỄM KHUẨN TRẺ EM
z Tần suất mắc nhiễm khuẩn nặng và sốc
nhiễm khuẩn trẻ em
R.S.Watson và cộng sự năm 2003 nghiên
cứu về dịch tễ học NKN trẻ em trong 7 bang của
Mỹ (24% dân số toàn nước Mỹ), sử dụng mã
bệnh theo ICD 9, phân tích số liệu ở trẻ dưới 19
tuổi. Nghiên cứu nhận định được 42364 trường
hợp mắc NKN, tính theo tỷ lệ dân số trẻ em là
0,56/1000/năm [27].
Nghiên cứu của A. Wolfl er và cộng sự tại Italy
trong 22 khoa hồi sức cấp cứu Nhi khoa từ 2004-
2005 ở trẻ em dưới 16 tuổi mắc TTNK, NKN và
SNK theo tiêu chuẩn chẩn đoán của IPSCC-2002.
Nghiên cứu cho biết có 320 trẻ mắc TTNK trong
tổng số 2741 trẻ nằm điều trị chiếm tỷ lệ 11,6%.
Khi bệnh nhi vào viện đã có chẩn đoán TTNK là
77,5%, còn lại 22,5% xuất hiện trong giai đoạn
nằm điều trị hồi sức. Tỷ lệ mắc theo mức độ của
nhiễm khuẩn là: TTNK 7,9%, NKN là 1,6%, và
SNK chiếm 2,1% [28].
z Tỷ lệ tử vong nhiễm khuẩn nặng và sốc nhiễm
khuẩn trẻ em:
Theo nghiên cứu của R.S. Watson và cộng sự
thì tỷ lệ tử vong NKN chung cho toàn nước Mỹ là
10,3% và tần suất mắc theo quần thể là 5,8/100
000, ít có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong theo tuổi,
ngoại trừ nhóm trẻ bú mẹ cao hơn là 13,5%. Nhóm
bệnh chính kết hợp với NKN có tỷ lệ tử vong cao
hơn khi vào viện là: bệnh mạn tính, trẻ có phẫu
thuật, trẻ nhiễm HIV. Trẻ tử vong trong vòng 2
ngày nhập viện chiếm tới 19,7% [27].
Tại Italy, A.Wolfl er và cộng sự năm 2005 xác
định được tỷ lệ tử vong do NKN là 17,7% và do
SNK là 50,8%. Trong nghiên cứu có 30,6% trẻ tử
vong trong vòng 24 giờ nhập viện và đều trong
tình trạng SNK. Tử vong liên quan đến trẻ mắc các
bệnh phối hợp mạn tính cao hơn so trẻ không mắc
(24% so với 8,9%) và mức độ nhiễm khuẩn cũng
nặng hơn, chủ yếu là SNK. Tỷ lệ tử vong do NKN
và SNK không có sự khác biệt về giới cũng như
nhóm tuổi trong nghiên cứu này [28].
4. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
z Đặc điểm vi khuẩn học [2].
Virus và nấm cũng là nguyên nhân gây SNK,
nhưng thường gặp hơn là vi khuẩn (VK). Hầu hết
các VK đều có thể gây ra nhiễm khuẩn máu, song
nhiễm khuẩn máu thì không nhất thiết tiến triển
thành SNK. Cấy máu dương tính chỉ khoảng 30-
50% ở bệnh nhân NKN.
Các vi khuẩn thường gặp gây TTNK, NKN và
SNK là: Escherichia coli, Klebsiella, Enterobacter,
Proteus. Pseudomonas aeruginosa liên quan
đến nhiễm khuẩn bệnh viện, sử dụng kháng sinh
không hợp lý, vết thương bỏng, tỷ lệ tử vong
cao. Bacteroides fragilis thường là các nhiễm
khuẩn máu kị khí. Staphylococcus aureus gây
hội chứng sốc nhiễm độc, gần đây có mô tả gây
SNK. Streptococcus pneumoniae. Streptococcus
pyogenes- Hội chứng sốc nhiễm độc do liên cầu.
Enterococcus sp.
Vi khuẩn Gram âm (VK Gr âm) là nguyên nhân
chính của NKN, tuy nhiên gần đây qua các nghiên
cứu quan sát và bằng chứng VK cho thấy vi khuẩn
gram dương (VK Gr dương) chiếm tỷ lệ cao hơn.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2012, 5, 4
4
Số liệu dịch tễ học nhiễm khuẩn ở người lớn của
Mỹ giai đoạn 1979 -2004 cho biết: từ năm 1979 đến
năm 1987 VK Gr âm chiếm tỷ lệ chính trong NKN,
nhưng giai đoạn sau đó đến năm 2003 thì tỷ lệ VK
Gram dương cao hơn, tăng 26,3% hàng năm [3].
S. pneumoniae, Neisseria meningitidis, S.
aureus là những vi khuẩn hay gặp ở NKN trẻ em.
NKN do H. infl uenza gần đây có giảm do sử dụng
vaccin Act-Hib. Các VK khác cũng hay gặp ở trẻ
em như E.coli, liên cầu nhóm B, Klebsiella sp,
Enterobacter sp.
Nhiễm khuẩn bệnh viện cần chú ý đến nhóm
bệnh nhân có nguy cơ như bệnh nhân suy giảm
miễn dịch, giảm bạch cầu hạt, bệnh nhân nằm hồi
sức có sử dụng kháng sinh kéo dài (gây nhiễm
nấm) hoặc nhiều thủ thuật xâm nhập (nhiễm tụ cầu
không đông huyết tuơng), bệnh nhân có vết thương
ngoại khoa (nhiễm Pseudomonas aeruginosa),
bỏng nặng, trẻ sơ sinh, suy dinh dưỡng.
Tỷ lệ tử vong cao liên quan đến các VK:
Pseudomonas aeruginosa, nấm Candida albicans
hoặc Enterococcus faecium kháng đa kháng sinh.
Các nguyên nhân khác như nấm, virus, Protozoa
cũng có thể gây SNK, nhưng ít gặp. Nhiễm virus
thường gặp các loại: Infl uenza, Enteroviruses,
HSV, RSV, CMV, EBV. Các phản ứng vacin cũng
có thể gây NKN và SNK như: vacin ho gà, cúm,
sởi [2], [4], [9], [15], [20], [24].
z Vị trí ổ nhiễm khuẩn.
Theo R.S. Watson và cộng sự nghiên cứu trên
quần thể trẻ em Mỹ thì vị trí ổ nhiễm khuẩn chính
gây NKN là đường hô hấp (37,2%), nhiễm khuẩn
máu tiên phát là 25%. Nhiễm khuẩn máu tiên phát
xuất hiện nhiều ở nhóm trẻ sơ sinh (41,8%), ít
hơn ở trẻ lớn 18,9%. Ngược lại, vị trí nhiễm khuẩn
hô hấp lại cao hơn ở trẻ lớn 45,9% so với 16,9%
ở trẻ sơ sinh. Nhóm trẻ mắc bệnh ung thư thì tỷ
lệ nhiễm khuẩn máu tiên phát cao hơn so không
mắc (41,5% so với 23,5%, p<0,001). Vị trí nhiễm
khuẩn liên quan đến tử vong cao nhất ở nhóm
trẻ mắc viêm nội tâm mạc (21,1%) và mắc nhiễm
khuẩn thần kinh trung ương (17,1%).
Vị trí ổ nhiễm khuẩn theo nghiên cứu của A.
Wolfl er và cộng sự tại Italy thấy hệ hô hấp là cơ
quan bị nhiễm khuẩn nhiều nhất (47,2%), nhưng
tử vong do bệnh lại thấp nhất (7,8%). Trong khi đó
thì nhiễm khuẩn máu chiếm tỷ lệ 24% thì tỷ lệ tử
vong lại cao nhất 30,5%.
5. SINH LÝ BỆNH HỌC SỐC NHIỄM KHUẨN [12].
Tình trạng nhiễm khuẩn được xác định có bệnh
cảnh lâm sàng đa dạng do đáp ứng miễn dịch của
bệnh nhân với nhiễm trùng. Phạm vi hoạt động
đầy đủ của tình trạng bệnh này đi từ hội chứng
đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) đến hội chứng
rối loạn chức năng các cơ quan (Multiple Organ
Dysfunction Syndrome - MODS), biểu hiện suy đa
tạng (Multiple Organ Failure - MOF), và cuối cùng
là tử vong.
Quá trình tiến triển từ hô ̣i chứng đáp ứng viêm
hệ thô ́ng (SIRS) đến SNK trên một bệnh nhân rất
phức tạp và cần được hiểu biết kỹ hơn. Bệnh nhân
SNK có 2 giai đoạn đáp ứng miễn dịch. Ban đầu
là phản ứng viêm quá mạnh đối với nhiễm trùng,
giai đoạn này hầu hết do vai trò của yếu tố hoại tử
u TNF (Tumor Necrosis Factor), IL-1 (Interleukine-
1), IL-12, IFN gamma (Interferon gamma) và IL-6.
Cơ thể điều hoà các đáp ứng này bằng cách tạo ra
các cytokine kháng viêm (IL-10), các chất ức chế
hoà tan (soluble inhibitors) như các thụ thể TNF,
thụ thể IL-1 type II, và IL-IRA (an inactive forme of
IL-1). Đây là biểu hiện của bệnh nhân ở giai đoạn
ức chế miễn dịch. Kéo dài tình trạng giảm đáp ứng
mạnh này làm tăng nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn
và tử vong.
Dòng thác đáp ứng viêm hệ thống ban đầu
do các sản phẩm khác nhau của vi khuẩn. Các
sản phẩm này gồm: endotoxin, formyl peptides,
exotoxins, proteases của vi khuẩn Gram âm, vi
khuẩn Gram dương: độc tố hội chứng sốc nhiễm
độc, ngoại độc tố gây sốt liên cầu A-SpeA, độc
tố đường ruột, yếu tố tan máu, peptidoglycans,
lipotechoic acid, và sản phẩm thành tế bào nấm.
Các sản phẩm trên gắn với các thụ thể nhạy cảm
đại thực bào của vật chủ và các protein điều hoà
hoạt động (Nuclear Factor Kappa B-NFĸB). Nội
độc tố hoạt hoá các protein điều hoà bằng tương
tác giữa các thụ thể nhạy cảm. Các thụ thể CD tổ
hợp với LPS, phức hợp LPS gắn protein trên bề
mặt tế bào và sau đó các TLR (Toll Like Receptors)
truyền tín hiệu tới các tế bào khác.
5PHẦN TỔNG QUAN
Hình 1. Sơ đồ hoạt động tiến triển SIRS, Sepsis, SNK, MOSF.
(Theo N.R. Chamberlain: SIRS to septic shock.)
Phức hợp protien gắn LPS
Các cytokine viêm gồm TNF, IL-1, IL-6, IL-12
và IFN-α. Các cytokine này có thể trực tiếp ảnh
hưởng đến chức năng các cơ quan hoặc chúng
có thể ảnh hưởng gián tiếp qua các yếu tố trung
gian thứ phát.
Các yếu tố trung gian thứ phát bao gồm: Nitric
Oxide (NO), thromboxane, leukotriene, yếu tố hoạt
hoá tiểu cầu (PAF) và các thành phần bổ thể. TNF
và IL-1 là nguyên nhân giải phóng yếu tố mô (TF-
tissue factor) từ tế bào nội mạc dẫn đến lắng đọng
fi brin và gây đông máu trong mạch lan tỏa.
Sau đó các yếu tố trung gian ban đầu và thứ
phát này là nguyên nhân hoạt hóa hệ thống đông
máu, hệ thống bổ thể và tạo ra prostaglandins
và leukotrienes. Các cục máu đông cư trú trong
lòng mạch và một lượng lớn trong các tạng và
có thể dẫn đến suy đa tạng. Trong thời điểm này
hoạt hoá hệ thống đông máu, kết cục là đông
máu nội quản rải rác và hội chứng suy hô hấp
nguy kịch.
Tích tụ các ảnh hưởng trên là các biểu hiện
mất cân bằng, tình trạng viêm trội hơn kháng viêm,
đông máu trội hơn là tiêu fi brin. Kết quả gây ra là
huyết khối vi mạch, giảm tưới máu, thiếu máu vùng,
tổn thương mô. Hậu quả này dẫn tới nhiễm khuẩn
nặng, sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng và tử vong.
LPS gắn proteinLy giải vi khuẩn
Đại thực bào
Các điểm tiếp nhận CD14, CD11/CD18,
TLR-2.TLR-4 LPS
Hội chứng suy hô hấp nguy kịch
(ARDS)
TNF, IL-1, IL-12, IL-6, IFNgamma
Hoạt hóa yếu tố
đông máu
Prostaglandins
Leukotrienes
Hoạt hóa thác
bổ thể
Tổn thương TB nội mạcSuy đa tạng
Rối loạn đông máu trong mạch lan tỏa (DIC)
LPS
TẠP CHÍ NHI KHOA 2012, 5, 4
6
6. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM
SÀNG SNK TRẺ EM
z Ghi nhận triệu chứng lâm sàng sớm của sô ́c
nhiê ̃m khuâ ̉n.
Hầu hết các bệnh nhân nhập viện ở giai đoạn
sớm đều có biểu hiện của tình trạng nhiễm khuẩn.
Thay đổi về nhiệt độ: sốt hoặc hạ nhiệt độ. Sốt
có thể kèm theo rét run. Biểu hiện hạ nhiệt độ
thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trẻ suy dinh
dưỡng nặng hay các trẻ mắc các bệnh suy giảm
miễn dịch. Sốt cao trên 41oC cần chú ý đến nhiễm
khuẩn màng não.
Nhịp tim nhanh và thở nhanh cũng thường biển
hiện ở giai đoạn sớm. Cung lượng tim tăng ở giai
đoạn này gọi là giai đoạn tăng động (hyperdynamic
phase), là cơ chế bù trừ của cơ thể để duy trì cung
cấp oxy, và phù hợp với nhu cầu tăng chuyển hoá.
Thay đổi tri giác theo từng mức độ: lo lắng, thờ ơ,
lú lẫn, kích thích, li bìCác tổn thương da xuất hiện
các dạng ban khác nhau như: đốm xuất huyết, bầm
máu, hồng ban, ban lan toả [1], [2], [8].
Vũ Văn Đính và cộng sự đã đưa ra tiêu chuẩn
cho chẩn đoán SNK giai đoạn sớm ở người lớn là:
huyết áp hạ, tuần hoàn tăng (DavO2 giảm, SaO2
tăng), sức cản hệ thống giảm, tiền gánh giảm (áp
lực tĩnh mạch trung tâm giảm, áp lực mao mạch
động mạch phổi bít giảm), nước tiểu tăng (trên 50
ml/giờ), và có tình trạng nhiễm khuẩn [24].
Phạm Văn Thắng và cộng sự đưa ra các triệu
chứng sớm của SNK ở trẻ em là: thay đổi ý thức,
mạch nhanh, bài niệu ít, thời gian làm đầy mao
mạch kéo dài và lactate máu tăng [22].
z Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trong
sô ́c nhiê ̃m khuâ ̉n.
Giai đoạn muộn, các triệu chứng lâm sàng phù
hợp với cơ chế của phản ứng nhiễm khuẩn. Cung
lượng tim giảm do đáp ứng với hậu quả của các
cytokine, gây huyết áp giảm, tuy nhiên ở trẻ em
huyết áp thường giảm muộn hơn. Trẻ em thường
có hiện tượng giảm tưới máu để duy trì huyết
áp trong giới hạn bình thường (giai đoạn còn bù
- compensated shock) [1], [8]. Các dấu hiệu của
giảm tưới máu như: thời gian làm đầy mao mạch
kéo dài, mạch ngoại biên nhỏ và lạnh chi. Biểu
hiện suy tim gặp cùng với nhip tim nhanh là ứ
đọng tuần hoàn: phù, gan to, tiểu ítTrẻ có thể
tím tái, suy hô hấp. Dấu hiệu tri giác có thể nặng
hơn, li bì hoặc hôn mê, kể cả khi không có viêm
màng não. Cung lượng nước tiểu giảm, hoặc có
thể vô niệu. Bệnh nhân có dấu hiệu vàng da tăng
bilirubine trực tiếp. Các triệu chứng của ban hoại
tử cấp [9], [18], [20]
Khi bệnh nhân có hạ huyết áp là biểu hiện ở
giai đoạn mất bù (uncompensated shock). Giai
đoạn này nhịp tim không thể bù nhanh lên được
làm cung lượng tim giảm xuống. Cung cấp oxy
các cơ quan giảm, dẫn đến chuyển hoá yếm khí,
lactate máu tăng nhanh, và toan chuyển hoá mất
bù. Chênh lệch nhiệt độ ngoại biên và trung tâm
cao, làm cho đầu chi lạnh, vân tím chi. Tình trạng
tri giác trì trệ hơn.
Giai đoạn trên nếu không được xử trí kịp thời
dẫn đến sốc không hồi phục (irreversible shock).
Dù có các triệu chứng co mạch mạnh nhưng huyết
áp vẫn tụt, dấu hiệu suy đa tạng ở giai đoạn cuối
và bệnh nhân có thể tử vong [1].
Có thể tìm thấy bằng chứng của các vị trí nhiễm
khuẩn và các triệu chứng lâm sàng đặc hiệu như: viêm
màng não, viêm phổi, viêm mô mềm: da, cơ, viêm mủ
khớp, nhiễm khuẩn ổ bụng, viêm đài bể thận [18].
z Các xét nghiệm [1], [2], [8], [24], [24]
Bạch cầu máu ngoại biên: thường tăng lên
khi nguyên nhân SNK là VK, nhưng có thể bình
thường hoặc thấp. Có tình trạng tăng các bạch
cầu dạng chưa biệt hoá: bands, myelocytes,
promyelocytes.
Đường máu tăng do phản ứng với các stress,
hoặc giảm do dự trữ glycogen bị cạn kiệt. Tình
trạng giảm đường máu hay gặp ở trẻ nhỏ, trẻ suy
dinh dưỡng. Đường máu tăng là yếu tố nguy cơ tử
vong trong các bệnh nhân hồi sức chung.
Khí máu biểu hiện toan chuyển hoá, nồng độ