Dân cư là tiến chỉ hết sức quan trọng và có thể coi là tiêu chí đặc trưng nhất để hình thành các sắc thái văn hóa hết sức phong phú, đa dạng. Việt Nam là một đất nước nhiều tộc người và sự khác biệt về qui mô dân số, hoàn cảnh sống, điều kiện lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển toàn diện và chú ý tính đặc thù và bản sắc của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vấn đề này có vai trò quan trọng trong nghiên cứu thực tiễn, góp phần không nhỏ vào việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, nhất là với các tộc người, địa phương còn ở trình độ phát triển chậm, mang nhiều nét đặc thù.
20 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3248 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự đa dạng của nền văn hóa dân tộc Việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự đa dạng của nền văn hóa dân tộc Việt nam
MỞ ĐẦU
Dân cư là tiến chỉ hết sức quan trọng và có thể coi là tiêu chí đặc trưng nhất để hình thành các sắc thái văn hóa hết sức phong phú, đa dạng. Việt Nam là một đất nước nhiều tộc người và sự khác biệt về qui mô dân số, hoàn cảnh sống, điều kiện lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển toàn diện và chú ý tính đặc thù và bản sắc của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vấn đề này có vai trò quan trọng trong nghiên cứu thực tiễn, góp phần không nhỏ vào việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, nhất là với các tộc người, địa phương còn ở trình độ phát triển chậm, mang nhiều nét đặc thù.
PHẦN I. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA
I. NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM
Vấn đề nguồn gốc dân tộc và làm rõ nguồn gốc dân tộc Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, văn hóa mà còn có ý nghĩa thiêng liêng đối với các thế hệ người Việt Nam. Ở đây đưa ra hai cách giải thích nguồn gốc dân tộc Việt Nam đó là cách giải thích nguồn gốc dân tộc thông qua các sự tích, truyền thuyết và thứ hai là dựa trên quan điểm khoa hoc.
Từ xưa đến nay, nhiều dân tộc trên đất nước ta cũng đã tìm cách giải thích nguồn gốc dân tộc mình thông qua các sự tích, truyền thuyết như: Chàng hươu sao và nàng cá chép; Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường; truyền thuyết Quả bầu của dân tộc Thái, Khơ Mú; nhưng tiêu biểu nhất là truyền thuyết Hùng Vương của dân tộc Việt (Kinh). Truyền thuyết Hùng Vương kể rằng: Tương truyền cháu ba đời của vua Thần Nông (Trung Quốc) là vua Đế Minh trong một chuyến tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh vào Động Đình Hồ gặp Tiên Nữ, tình cảm nảy nở giữa người Bắc kẻ Nam dẫn đến nhân duyên sau đó sinh hạ được thái tử đặt tên là Lộc Tục. Vua Đế Minh ở với Tiên Nữ được ít lâu rồi trở về Phương Bắc trước khi về Ông cho lập đàn tế trời đất rồi nói: "Ta nhất sinh có nhiều mĩ nữ, chỉ sinh được có thái tử là Đế Nghi. Sau khi kết hôn với Tiên Nữ sinh thêm được một thái tử là Lộc Tục. Vậy ta phong thái tử Đế Nghi làm vua phương Bắc đến núi Ngũ Lĩnh. Lộc Tục làm vua phương Nam từ núi Ngũ Lĩnh về Nam hay còn gọi là đất Lĩnh Nam".
Lộc Tục lên ngôi hiệu là Kinh An Dương Vương vào năm 2879 TCN. Sau đó, Lộc Tục lại kết hôn với con gái của Động Đình Quân là Long Nữ sinh thành được thái tử Sùng Lâm. Thái tử Sùng Lâm kế tục ngôi vua hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lại kết hôn với Âu Cơ là con vua Đế Lai sinh ra bọc có một trăm trứng sau nở thành một trăm người con, năm mươi người lên rừng, năm mươi người xuống biển… Đến thời Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng là Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang; lại phong cho 99 người con mỗi người làm chủ một ấp… Vì vậy, đất Lĩnh Nam mới có trăm họ, đó là nguồn gốc của Bách Việt. Nước Văn Lang do các Vua Hùng làm chủ được chia làm 15 bộ, gồm : Văn Lang, Tân Hưng, Lục Hải, Giao Chỉ, Hoài Hoan, Châu Diên, Vũ Định, Ninh Hải, Cửu Chân, Cửu Đức, Phú Lộc, Vũ Ninh, Dương Tuyền, Nhật Nam, Việt Thường...
Kể từ Kinh An Dương Vương lập quốc (2789TCN) đến năm 257 TCN bị Thục Phán An Dương Vương lật đổ, nhà nước Văn Lang truyền được 88 đời vua, kéo dài 2622 năm. Danh hiệu 88 đời vua nay chỉ nhớ và lưu truyền được 18 đời, cụ thể là: Lục Dương Vương (Kinh An Dương Vương), Hùng Hiền Vương, Hùng Quốc Vương, Hùng Diệp Vương, Hùng Hy Vương, Hùng Huy Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Vi Vương, Hùng Anh Vương, Hùng Nghi Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Vũ Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Anh Vương, Hùng Triệu Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghi Vương, Hùng Tuyên Vương. Vì thế, chúng ta thường quen gọi 18 đời Vua Hùng là do danh tính còn lưu được của 18 đời vua này.
Bên cạnh những truyền thuyết lịch sử về nguồn gốc dân tộc của dân gian, ngày nay các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học cũng đã tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam; nhiều vấn đề khoa học bước đầu cũng đã được làm rõ; một trong số những kết quả tiêu biểu đó là kết quả nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Pháp Mácpêrô và Lê Văn Siêu. Căn cứ vào những di chỉ khảo cổ học đã tìm thấy ở Việt Nam từ thời kỳ đồ đá đến thời đại kim khí (tiêu biểu là các di chỉ khảo cổ học tìm thấy ở Núi Đọ (Thanh Hóa) thuộc thời đại đá cũ cách ngày nay hàng chục vạn năm, đến di chỉ khảo cổ học Sơn Vi (Phú Thọ) thuộc thời đại đá giữa cách ngày nay khoảng trên dưới 1 vạn năm, đến các di chỉ thuộc thời kỳ đá mới cách ngày nay 5 - 6000 năm; sau đó là chuyển sang giai đoạn các nền văn hóa kim khí Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn phát triển hết sức rực rỡ, với những hiện vật tìm thấy rất phong phú trên một địa bàn rộng...) nhóm nghiên cứu thuộc Viện Viễn Đông Bát Cổ (Hà Nội) đã đưa ra quan điểm dân tộc Việt Nam có nguồn gốc bản địa.
Cùng với những công trình trên, học giả Đào Duy Anh, trên cơ sở khảo đính về lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc, thấy có nước Việt bị nước Sở chinh phục; không chịu thần phục sự thống trị của người Hán, một bộ phận cư dân nước Việt đã phiêu dạt xuống phương Nam vào Bắc Đông Dương và miền Bắc Việt Nam sinh sống, dần dần bị Việt hóa trở thành một bộ phận của cư dân Việt... Vì vậy, ông đã đưa ra quan điểm người Việt vốn là một bộ phận của cư dân nước Việt thời Xuân Thu – Chiến Quốc.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về thời đại Hùng Vương đã được công bố, Bình Nguyên Lộc cũng đưa ra quan điểm, người Việt có nguồn gốc từ Tây Tạng thiên di xuống sinh sống ở miền Nam Trung Quốc, Bắc Đông Dương và Bắc Việt Nam, mà hiện diện của nhóm cư dân này là cư dân nói tiếng Tày – Thái.
Cùng với Bình Nguyên Lộc, Giáo sư Văn Tân dựa trên cơ sở nghiên cứu các nhóm cư dân cổ đã từng sinh sống ở bắc Đông Dương, Tây Nguyên... ông nhận thấy các dân tộc: Khạ (Lào), Khơ Mú, Kháng, Mảng, Xinh Mun, La Ha và các dân tộc ở Tây Nguyên... có nhiều nét tương đồng với cư dân cổ ở châu đại dương, cả về thể tạng, tâm lí, ngôn ngữ... Trên cơ sở đó ông đưa ra quan điểm, một bộ phận dân tộc Việt có nguồn gốc từ châu Đại Dương thiên di vào.
Tuy nhiên, cho đến nay quan điểm được nhiều nhà sử học Việt Nam, Đông Nam Á thừa nhận nhất đó là quan điểm cho rằng: Tổ tiên người Việt là kết quả của sự hỗn chủng khá phức tạp và quá trình đó diễn ra trong một thời gian rất lâu dài. Cụ thể, vào thời kỳ Đá giữa cách ngày nay khoảng 1 vạn năm ở Đông Nam Á diễn ra sự hỗn chủng của hai chủng tộc lớn Môngôlôit từ phía Bắc thiên di xuống (đại diện là nhóm người thiên di từ Tây Tạng) và Otrâylôit từ phía Nam thiên di lên (đại diện là nhóm người Mêlanesien) đưa đến sự ra đời của một chủng tộc mới là Indosien. Sau đó chủng tộc mới là Indosien lại tiếp tục Môngôlôit hóa (hỗn chủng với chủng Môngôlôit) đưa đến sự ra đời của chủng mới là cư dân Nam á (hay còn gọi là nhóm Bách Việt). Cư dân Nam Á bao gồm nhiều tộc người, với những nhóm tiếng khác nhau như: Tày – Thái, Việt Mường, Môn – Khơ me... Địa bàn sinh sống của cư dân Nam Á rất rộng lớn, phía Bắc từ bờ nam sông Dương Tử trở xuống (hồ Động Đình); phía Tây bao gồm tòan bộ phần đất thuộc lưu vực sông Inđiravađi (Mianma), Lào, Thái Lan... tiếp giáp với ấn Độ; phía Nam gồm toàn bộ khu vực rộng lớn Đông Nam Á lục địa và Đông nam á hải đảo... Cư dân Nam Á có nhiều nét tương đồng như cùng là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, về thể tạng nhìn chung thấp bé, nhỏ con; tóc đen hơi soăn, mắt đen; về tính cách dữ dằn, cấm cảu; về mặt sinh lí nhóm cư dân này có khả năng sinh sản rất lớn... Một bộ phận của người Bách Việt là người Lạc Việt – tổ tiên của người Việt hiện đại. Còn nhánh khác không tiếp tục hỗn chủng với Môngôlôit thì phát triển thành nhánh Indosien hiện đại (hay còn gọi là Nam đảo).
Với quan điểm này cho phép chúng ta giải thích một cách khoa học vì sao cư dân Nam á lại có những nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán...
Việc nghiên cứu nguồn gốc các dân tộc Việt Nam giúp chúng ta xác định được toạ độ không gian văn hoá Việt Nam; phân biệt được không gian chính trị đương đạivới không gian văn hoá. Không gian văn hoá chính là địa bàn mà mà tổ tiên của cư dân hiện nay từng sống ở đó. Làm rõ nguồn gốc dân tộc Việt Namcòn giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết hữu cơ giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa của các quốc gia trong khu vực Đông Nam á, với những nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ nghi...
II. DÂN TỘC VIỆT NAM
Đất nước Việt Nam trải dài trên vùng đất ven biển của Đông Nam Á, từ xa xưa đã có nhiều dân tộc sinh sống, tổng cộng có 54 dân tộc sinh sống. Ngoài dân tộc Việt ( kinh ) chiếm trên 80% dân số, sống chủ yếu ở đồng bằng và trung du, 53 dân tộc người thiểu số sống chủ yếu ở vùng đồng bằng và trung du,. ở phía Bắc và Tây Bắc, có người Thái, Tày, Nùng, Mông, Dao, Cao Lan, Sán Dìu, Lô lô… , ở Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có các dân tộc Thái, Mường..., ở Tây Nguyên có người Ba-na, Xơ-Đăng, Gia-va…; ở Tây Nam Bộ có người Khơ-Me. Số lượng của mỗi tộc nguời cũng rất khác nhau. Các dân tộc Mường, Thái, Tày… có số dân trên dưới một triệu, ví dụ: Dân tộc mường có 1.137.515 người; Thái: 1.328.725; Tày: 1.477.514. Trong khi các dân tộc khác có tộc người chỉ khoảng hơn 300 người như Brâu, Ơ Đu và Rơ- Mum.
Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau:
Nhóm Việt - Mường có:
Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự. Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
Nhóm Môn-Khơ me có 21 dân tộc là: BaNa, Brâu, Bru - Vân kiều, Chơ ro, Co, Cơ ho, Cơtu, Gié - triêng, Hrê, Kháng, Khme, Khomu, Mạ, Mảng, M’nông, Ôđu, Rơ măn, Tà ôi, Xinh mun, Xơ đăng, Xtiêng.
Nhóm Mông_Dao có 3 dân tộc: Dao, Mông, Pà Thẻn.
Nhóm Kađai có 4 dân tộc: Cờ lao, La chí, Laha, Pu péo.
Nhóm Nam-đảo có 5 nhóm dân tộc: Chăm, Churu, Êđê, Gia-rai, Ragrai.
Nhóm Hán có 3 dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu.
Nhóm tạng có 6 dân tộc: Cống, Hà nhì, Lahủ, Lôlơ, Phù Lá, Sila.
Dân tộc Việt Nam là chủ thể sáng tạo văn hoá. 54 dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam thể hiện những bản sắc văn hóa đặc sắc, hội tụ nhiều yếu tố bản địa và khu vực. Văn hoá của người Thái có vẻ đẹp tinh tế mang tính hoà hợp với thiên nhiên; Văn hoá người H’mông_Dao có nét khoẻ khoắn mang tính chế ngự thiên nhiên; Văn hoá người Khơ me_Nam bộ hài hoà và bí ẩn trong lớp vỏ của phật giáo; Văn hóa người Kinh ở đồng bằng và trung du có sự đa dạng nhờ vào đặc tính linh động và ưa tiếp thu cái mới…
Mỗi dân tộc có số lượng cư dân, có tiếng nói, văn hoá khác nhau, đặc trưng riêng cho từng dân tộc mình. Song do các dân tộc sống xen kẽ nhau, nên một dân tộc còn biết tiếng, tập tuc của các dân tộc có quan hệ hàng ngày. Và dù sống xen kẽ với nhau,giao lưu văn hoá với nhau nhưng các dân tộc vẫn giữ được nét riêng văn hoá của dân tộc mình. Sự đa dạng văn hóa của các dân tộc được thống nhất trong quy luật chung_quy luật phát triển đi lên của đất nước.
III. SỰ ĐA DẠNG VĂN HOÁ
Nền văn học Việt Nam là nền văn hóa mở phong phú và đa dạng. Do địa lí vị trí và sự đa dạng sinh học cũng như quá trình lịch sử mà hình thành nền văn hóa Việt Nam đa dang và giàu bản sắc như ngày nay. Sự đa dạng này của văn hóa Việt Nam dựa trên cơ tần của văn hóa Trung Hoa, văn hóa ấn Độ, văn hóa phương Tây, dựa trên sự đa dạng về không gian văn hóa và sự đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Đa dạng là giao lưu tiếp biến văn hóa:
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa, là sự vận động thường xuyên của văn hóa. Giao lưu vừa là kết quả trao đổi vừa là chính bản thân sự trao đổi.
Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn đặt mỗi dân tộc phải xử lí tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nôi sinh và yếu tố ngoai sinh. Trong quá trình này người Việt Nam không tiếp nhận toàn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp cho tộc người mình.
Từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á - một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước Việt Nam đã có sự giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa. Đây là sự giao lưu rất dài trong nhiều thời kỳ lịch sử của Việt Nam. Cho đến nay, không một nhà văn hóa học nào có thể phủ nhận ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung hoa đối với văn hóa Việt Nam. Quá trình giao lưu tiếp biến ấy diễn ra ở cả hai trạng thái: giao lưu cưỡng bức và giao lưu không cưỡng bức.
Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện của mối quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động phát triển đa dang của văn hóa Việt Nam qua diễn tính lịch sử. Người Việt đã tạo ra khá nhiều thành tựu trong quá trình giao lưu văn hóa này. Ví dụ: Văn học nghệ thuật, các thể loại thơ, phong tục tập quán, cách ăn mặc…
Khác với Trung Hoa có đường biên giới với Việt Nam, Ấn Độ không trực tiếp giáp với Việt Nam nhưng văn hóa Ấn Độ lại có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam trên nhiều bình diện văn hóa ấn Độ “thẩm thấu” vào văn hóa Việt Nam bằng nhiều thách thức và liên tục. Điều này không chỉ thể hiện qua các nền văn hóa trước đây như: óc eo, Chăm Pa mà hiện nay nó còn thể hiện rõ rệt trong văn hóa của một số vùng, một số dân tộc Việt Nam như: Chăm, Chân …Đặc biệt, quá trình giao lưu và tiếp xúc của văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây theo lối sản xuất công nghiệp.
Sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam ngoài việc do giao lưu tiếp biến chọn lọc từ các nền văn hóa khác trên thế giới trước hết phải kể đến sự đa dạng của các yếu tố nội sinh trong nó: Văn hóa vùng, văn hóa vùng là một thực thể văn hóa, hình thành tồn tại trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng văn hóa về cách thức sản xuất về ăn, mặc, ở, đi lại; về cách tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng, tín ngưỡng. Phong tục và lễ hội, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, vui chơi giải trí, các sắc thái tâm lí của cư dân… Những đặc trưng văn hóa đó hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài, do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện môi trường, có sự tương đồng về trình độ phát triển văn hóa xã hội và có quan hệ giao lưu mật theiét.
Trên cơ sở những quan niệm đó có thể phân vùng văn hóa ở Việt Nam thành 7 vùng văn hóa lớn:
- Vùng văn hóa Tây Bắc.
- Vùng văn hóa Việt Bắc
- Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
- Vùng văn hóa Trung Bộ.
- Vùng văn hóa Tây Nguyên.
- Vùng văn hóa Nam Bộ.
Mỗi vùng đều có đặc trưng văn hóa khác nhau in đạm dấu ấn của điều kiện tự nhiên và lịch sử hình thành tồn tại của mình.
Theo thống kê thành phần dân tộc, nước ta có 54 dân tộc người (dân tộc). Như vậy, ta cũng sẽ có ngần ấy sắc thái văn hoá khác nhau. Có những tộc người mà nền văn hoá của họ còn bảo lưu khá rõ và thành các hệ thống sắc thái đặc trưng, như văn hoá Thái, Mường, Việt, Hmông, Dao, Chăm, Ê đê, Giarai,Bana… Không ít dân tộc đã bị đồng hoá, còn bảo lưu rất mờ nhạt các sắc thái tộc người như các tộc Thổ, Ơ đu, Ngái, Sán Dìu, Sán Chay… Sự khác biệt và đa dạng của văn hoá các tộc người thể hiện qua văn hoá ăn, mặc, ở, các nghi lễ, phong tục, văn học truyền miệng, sinh hoạt văn hoá và nghệ thuật… Sau đây là một vài nét đặc trưng văn hoá của một số tộc người tiêu biểu.
Tộc người Tày Nùng
Người Tày Nùng có dân số đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, sống hầu hết ở vùng Tây Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang… và có một số những nét đặc trưng là:
- Truyền thống ăn uống:
Lương thực thực phẩm chính là sản phẩm từ môi trường sinh thái: thung lũng, ruộng lúa, sông suối, rừng. Lương thực thực phẩm chủ yếu là gạo, cá, tôm, rau quả, thịt. Do sống ở vùng lạnh, lại ảnh hưởng từ Trung Quốc, nên người Tày- Nùng ăn thịt nhiều hơn, cách chế biến sử dụng nhiều mỡ, thịt để rán, xào. Các món ăn nổi tiếng: thịt lợn quay, vịt quay ( dùng lá, quả cây mắc mật để chế biến ), món rau khổ nhục, chân giò nhồi, gà tần, thịt dê các loại… Ngoài ra, còn có các món đơn giản khác như: cơm, xôi, các loại rau, hoa quả: táo, lê, trám, mận…
- Văn hoá mặc:
Phụ nữ Tày mặc trang phục kín đáo, chỉ để hở khuôn mặt và hai bàn tay. Y phục tuyền một màu chàm sậm hay tím hồng, ít trang trí hoa văn trên khăn, váy áo. Trang sức: vòng cổ, vòng tay, xà tích… bằng bạc, đi cùng khăn đội đầu, thắt lưng. Chất liệu vải đều là vải bông, nhuộm chàm, nhưng hoa văn trang trí, cách may giữa các nhóm Nùng có nét khác biệt. So với người Tày, người Nùng ưa mặc bền hơn.
- Nhà ở:
Nhà sàn là đặc trưng cho nhà cửa của người Tày- Nùng, ngoài ra còn có nhà đất và nhà nửa sàn đất: để nhốt trâu bò, lợn gà; tầng sàn là nơi ngủ, sinh hoạt của gia đình, là nơi đặt bếp lửa và bàn thờ là nơi linh thiêng; tầng gác: nơi chứa đồ vật, nhất là các loại nông phẩm. Kết cấu nhà sàn tạo nên hệ chụi lực khá hoàn hảo, sử dụng các nguyên liệu sẵn có như: gỗ, tre, đất đá.
- Tín ngưỡng phong tục và lễ hội:
Tín ngưỡng dân gian; thờ phụng tổ tiên, thờ bà mụ, thờ Phật Bà Quan Âm, Táo quân, thờ thần, nhiều làng thờ Thành Hoàng làng, thờ Phật ở trên các đèo có nhiều người qua lại. Đặc biệt, ở bản làng có các thầy cúng :Mo, Then, Tào…thực hành nghi lễ chủ yếu. Các nghi lễ, lễ hội chính: tết nguyên đán, lễ lồng tồng (lễ hội xuống đồng); tết Thanh minh, Đoan ngọ, lễ cúng thần ruồng, cúng vong linh thần chết 14/7…Một số nghi lễ đặc trưng : nghi lễ sinh đẻ Mẻ Bióc, tục hát quan lang trong đám cưới, lễ mừng thọ cho người trên 50 tuổi, làm tục nối số mong người già mạnh khoẻ, sống lâu, các nghi thức tang lễ: bắn sung báo tang, lễ nhập quan, lễ mời thầy Tào dẫn hôn chết lên trời
- Văn hoá nghệ thuật:
Văn học dân gian phong phú, nhiều thể loại: tự sự dân gian, thơ ca dân gian, truyện dân gian…Gốc là văn học truyền miệng, sau này phát triển thành văn học viết, phát triên mang tính chuyên nghiệp. Nghệ thuật dân gian: nghệ thuật tạo hình trong kiến trúc nhà sàn, trang trí thổ cẩm, nghệ thuật cắt giấy, vẽ tranh thờ,nghệ thuật dẫn xướng dân gian: Mo, Then, Tào, dựt hát trong đám cưới, đám tang, lễ hội, nghệ thuật múa cổ truyền thống của người Tày - Nùng chủ yếu là múa ngh lễ: múa Then, múa thày Tào trong tang lễ.
2. Văn hóa Mường:
Người Mường là một trong số ít dân tộc có lịch sử lâu đời, lại có cùng nguồn gốc đặc biệt với người Việt.
Về văn hóa Mường, trước hết phải kể tới ngôn ngữ. Hơn 20 chiến tranh nghiên cứu đã xác định phạm vi tiếng Mường và quan hệ của nó với các nhóm địa phương, xác định vị trí tiếng Mường trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, vấn đề ngôn ngữ tiền Việt - Mường. Sau đó là văn hóa dân gian gồm: truyện cổ tích, huyền thoại, truyền thuyết, truyện thơ, đặc biệt là hình thức mo, trong đó mo “đẻ đất đẻ nước” của dân tộc Mường ở Hòa Bình và dân tộc Mường ở Thanh Hóa có hàng vạn câu bằng tiếng Mường dịch ra tiếng Việt.
- Văn hóa ăn:
Bữa ăn của người Mường dùng nhiều gia vị, đặc biệt là gia vị mạnh: đắng, chát, chua, cay… người Mường ưa các món ăn có vị đắng: màng đắng, đọt đu đủ, mật cá, ruột non bò, lợn, ruột cá còn mật… các món chua cũng chiếm tỷ lệ lớn. Trong bữa ăn, ít khi thiếu đĩa muối xả, giống món cháo của người Thái, nước chấm của người Việt.
- Văn hóa mặc:
Nữ phục Mường luôn phô ra sắc thái dân tộc độc đáo, với váy bó sát thân, cạp hoa phô trước ngực, áo cánh lửng, thắt lưng xanh, khăn đội đầu, kiềng bạc lóng lánh, … nữ phục Mường không diêm dúa như của người Thái, không quá kín như người Tày - Nùng, không phong phú màu sắc như người H’mông, Dao…
- Văn hóa ở:
Người Mường sống trong nhà sàn giản dị bằng gỗ, tre, nứa, lá,… không gian phân thành bên trong và bên ngoài, bên trên và bên dưới, bên ngoài (Pèn, ngoay) gần cửa chính là nơi sinh hoạt của nam giới, tiếp khách, đặt bàn thở, bếp nấu nước, nơi ngủ. Bên trong là nơi nấu nướng, dành cho phụ nữ. Bếp lửa dù bên trong hay bên ngoài đều là nơi linh thiêng, không mấy khi tắt lửa, là trung tâm sinh hoạt của gia đình.
- Văn hóa tinh thần phong phú:
Thờ cúng tổ tiên với hình thức thờ rẹng (bàn thờ nhỏ) chỉ được thờ ở nhà con trưởng và chuối là vật cúng không thể thiếu. Các xóm làng phần lớn có đình và chùa. Đình thờ Thành Hoàng làng, chùa thờ Phật (bụt), nhưng không có sư sãi, chỉ có ông từ lo cúng lễ. Xã hội Mường cổ có những người hành nghề tín ngưỡng, đó là bộ mo, hành lễ trong các đám ma, bộ Klương: