Hội nhập tài chính là xu thế mà thị trường tài chính các quốc gia
trong khu vực và thế giới trở nên ngày càng gắn kết. Quá trình này
đang diễn ra và lan toả trên toàn cầu với sự ra đời của các liên minh
kinh tế, tiền tệ. Nhiều quốc gia khai thác được những lợi ích của hội
nhập tài chính nhưng cũng không ít quốc gia phải gánh chịu nhiều
rủi ro và biến động. Hiểu rõ về hội nhập tài chính, đặc biệt là mức độ
hội nhập, là một yếu tố quan trọng giúp các quốc gia xây dựng được
lộ trình rõ ràng và hợp lý nhằm khai thác được các lợi ích và hạn
chế bớt những rủi ro biến động mà hội nhập đem lại. Thị trường trái
phiếu Chính phủ (TPCP) là một bộ phận của thị trường tài chính,
đóng vai trò vĩ mô quan trọng và cũng nằm trong xu hướng hội nhập.
Thị trường TPCP Việt Nam đang từng bước hội nhập vào thị trường
khu vực. Bài viết sẽ sử dụng bộ chỉ số đánh giá mức độ hội nhập tài
chính để đánh giá mức độ hội nhập của thị trường TPCP Việt Nam.
Đây sẽ là gợi ý, giúp các nhà quản lý xây dựng được lộ trình hội
nhập phù hợp nhằm tận dụng những lợi ích, đồng thời hạn chế bớt
những rủi ro mà hội nhập tài chính đem lại.
10 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng bộ chỉ số đánh giá mức độ hội nhập tài chính để đánh giá mức độ hội nhập thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 192- Tháng 5. 2018
Sử dụng bộ chỉ số đánh giá mức độ hội nhập
tài chính để đánh giá mức độ hội nhập thị
trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Trần Thị Thu Hương
Ngày nhận: 27/12/2017 Ngày nhận bản sửa: 16/01/2018 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018
Hội nhập tài chính là xu thế mà thị trường tài chính các quốc gia
trong khu vực và thế giới trở nên ngày càng gắn kết. Quá trình này
đang diễn ra và lan toả trên toàn cầu với sự ra đời của các liên minh
kinh tế, tiền tệ. Nhiều quốc gia khai thác được những lợi ích của hội
nhập tài chính nhưng cũng không ít quốc gia phải gánh chịu nhiều
rủi ro và biến động. Hiểu rõ về hội nhập tài chính, đặc biệt là mức độ
hội nhập, là một yếu tố quan trọng giúp các quốc gia xây dựng được
lộ trình rõ ràng và hợp lý nhằm khai thác được các lợi ích và hạn
chế bớt những rủi ro biến động mà hội nhập đem lại. Thị trường trái
phiếu Chính phủ (TPCP) là một bộ phận của thị trường tài chính,
đóng vai trò vĩ mô quan trọng và cũng nằm trong xu hướng hội nhập.
Thị trường TPCP Việt Nam đang từng bước hội nhập vào thị trường
khu vực. Bài viết sẽ sử dụng bộ chỉ số đánh giá mức độ hội nhập tài
chính để đánh giá mức độ hội nhập của thị trường TPCP Việt Nam.
Đây sẽ là gợi ý, giúp các nhà quản lý xây dựng được lộ trình hội
nhập phù hợp nhằm tận dụng những lợi ích, đồng thời hạn chế bớt
những rủi ro mà hội nhập tài chính đem lại.
Từ khoá: Hội nhập tài chính, thị trường trái phiếu Chính phủ, chỉ số
đánh giá mức độ hội nhập
1. Giới thiệu
rong một vài thập
kỷ gần đây, xu
thế hội nhập tài
chính ngày càng
lan rộng và trở thành vấn đề
được quan tâm hàng đầu tại
mỗi quốc gia. Đã có nhiều
nghiên cứu trước đây đưa ra
nhiều khái niệm về hội nhập
tài chính như nghiên cứu của
Baele và cộng sự (2004),
Brouwer (2005), Xing và
Abbott (2007), Broos (2010).
Tóm lại, hội nhập tài chính là
quá trình thị trường tài chính
một quốc gia trở nên ngày
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
11Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
càng kết nối với thị trường
tài chính các quốc gia khác
trong khu vực và trên thế
giới, kéo theo sự tự do dịch
chuyển dòng vốn và các dịch
vụ tài chính xuyên biên giới
giữa các quốc gia, không
phân biệt đối xử giữa những
người tham gia thị trường,
làm cho các tài sản tài chính
có đặc điểm giống nhau bất
kể nguồn gốc xuất xứ sẽ được
giao dịch với mức giá như
nhau. Hội nhập tài chính ảnh
hưởng đến cấu trúc thị trường
tài chính, từ đó tác động đến
sự ổn định tài chính. Hội nhập
tài chính được chứng minh
cả trên phương diện lý thuyết
và thực tiễn là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua
thúc đẩy sự phát triển của thị
trường tài chính, loại bỏ các
rào cản giao dịch xuyên biên
giới và phân bổ nguồn lực
có hiệu quả (Levine, 2001;
Schmukler, 2004; Edison
et al, 2002 và Prasad et al,
2003). Bên cạnh đó, hội nhập
tài chính cũng đem lại rủi ro
như gia tăng biến động dòng
vốn, mất ổn định tài chính vĩ
mô, lan truyền rủi ro và nguy
cơ khủng hoảng (Schmukler,
2004; Kaur, 2014; Mougani,
2011). Đồng thời, nhiều
nghiên cứu trước đây chỉ ra
rằng hội nhập tài chính có thể
dẫn đến sự hợp nhất trong một
số ngành do sự cạnh tranh
ngày càng tăng mặc dù hội
nhập tài chính không có nghĩa
là hợp nhất. Việc hợp nhất quá
nhiều trong một phân khúc thị
trường có thể làm cản trở sự
cạnh tranh, đem lại những tác
động không mong muốn đến
thị trường (Baele và cộng sự,
2004). Vì vậy, điều đặc biệt
quan trọng là kiểm soát và
hiểu rõ về quá trình hội nhập
thị trường tài chính, trong đó
việc đo lường chính xác tình
trạng hội nhập của các phân
khúc thị trường tài chính là
cần thiết để có thể đưa ra các
bước đi và lộ trình phù hợp
cho thị trường hội nhập nhằm
tận dụng được những lợi ích
và hạn chế bớt những tác động
không mong muốn.
Thị trường TPCP là một
bộ phận của thị trường tài
chính, là nơi phát hành, giao
dịch mua bán các loại TPCP
giữa Chính phủ và nhà đầu
tư (NĐT), giữa các NĐT với
nhau. Thị trường TPCP đóng
vai trò rất quan trọng trong
việc huy động vốn cho ngân
sách nhà nước (NSNN) với
chi phí hợp lý, tuân theo thị
trường, hỗ trợ thực thi chính
sách tiền tệ. Tại Việt Nam,
TPCP mặc dù đã sớm được
phát hành nhằm đáp ứng nhu
cầu của ngân sách nhưng thị
trường TPCP chưa thực sự
phát triển. Sau khi trở thành
thành viên của WTO, thị
trường trái phiếu Việt Nam
đã từng bước phát triển và hội
nhập với thị trường khu vực
và thế giới. Được thành lập từ
năm 2009, là một bước tiến
trong quá trình phát triển và
hội nhập của thị trường TPCP,
thị trường TPCP chuyên biệt
của Việt Nam đã từ bước sơ
khai ban đầu phát triển gần
tiệm cận với thị trường Asean,
và đặt mục tiêu hội nhập sâu
rộng hơn nữa vào thị trường
trái phiếu khu vực Asean
(Asean bond market). Thị
trường TPCP những năm qua
đã đạt được những thành tựu
nhất định như mở rộng về quy
mô lên đến 21% GDP năm
2016, kỳ hạn phát hành trái
phiếu bình quân năm 2016 đạt
8,7, tăng khá cao so với năm
2000 chỉ khoảng 1,8 năm, giá
trị giao dịch và giá trị niêm
yết tăng qua các năm, cơ cấu
NĐT được cải thiện với tỷ
trọng nắm giữ TPCP của các
ngân hàng thương mại giảm,
tăng cường sự tham gia của
các tổ chức nắm giữ TPCP dài
hạn như công ty bảo hiểm, các
quỹ đầu tư. Bên cạnh đó, cùng
với quá trình phát triển của thị
trường, nhiều quy định, quy
tắc thị trường được thay đổi
cho phù hợp, cơ sở hạ tầng
công nghệ cho giao dịch và
thanh toán cũng không ngừng
được nâng cấp, công cụ giao
dịch cũng đa dạng, phong phú
hơn, bắt đầu xuất hiện các
công cụ giao dịch phổ biến
trên thị trường trái phiếu quốc
tế.
Về hoạt động hội nhập thị
trường trái phiếu, trong khuôn
khổ hợp tác tài chính, Việt
Nam là thành viên của diễn
đàn các thị trường mới nổi
(EMF), tham gia Sáng kiến
thị trường trái phiếu Châu
Á ABMI (2003), diễn đàn
thị trường trái phiếu Châu Á
ABMF (2010), là thành viên
cộng đồng kinh tế Asean,
Asean + 3, và tham gia diễn
đàn thị trường trái phiếu mới
nổi (Germlock). Trong những
hoạt động này, Việt Nam chưa
tham gia một cách sâu rộng,
phần lớn mới chỉ tham gia các
sáng kiến, nghiên cứu. Đồng
thời, trong quá trình hội nhập,
Bộ Tài chính cũng nhận được
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
hỗ trợ kỹ thuật từ ABMI,
Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB), Ngân hàng Thế giới
(WB), Đại sứ quán Anh để
hoàn thiện thể chế chính sách
và nâng cao khả năng quản
lý, giám sát trong lĩnh vực thị
trường trái phiếu. Trong khu
vực Asean, Việt Nam đã từng
bước tham gia vào thị trường
trái phiếu khu vực với nhiều
hoạt động như cung cấp thông
tin về thị trường trái phiếu
Việt Nam để minh bạch hoá
và quảng bá thị trường tới
các NĐT trái phiếu khu vực
và quốc tế, cụ thể là đã cùng
tham gia xây dựng sổ tay về
thị trường trái phiếu Asean-
Asean Bond market guide;
chuẩn hoá các thông lệ giao
dịch sao cho phù hợp với các
chuẩn mực được quốc tế công
nhận, rà soát quy trình thủ
tục phát hành trái phiếu nhằm
tiến tới tham gia vào việc thử
nghiệm trong chương trình
phát hành trái phiếu đa tiền tệ
của Asean.
Trong thời gian tới, mục tiêu
của thị trường TPCP là hội
nhập hơn nữa vào thị trường
khu vực và thế giới. Vì vậy,
trong khuôn khổ bài nghiên
cứu, tác giả đánh giá mức độ
hội nhập của thị trường TPCP
Việt Nam thông qua sử dụng
bộ chỉ số đánh giá mức độ hội
nhập tài chính cho phân khúc
thị trường trái phiếu nhằm
giúp hiểu rõ hơn về việc hội
nhập thị trường TPCP.
2. Tổng quan nghiên cứu và
cơ sở lý thuyết
Phương pháp đánh giá mức
độ hội nhập tài chính
Hội nhập tài chính liên quan
đến vấn đề tác động bất cân
xứng của các rào cản đang
tồn tại ở các thị trường khác
nhau. Các tác động này càng
cân xứng thì mức độ hội nhập
tài chính càng cao. Vì vậy,
các khuôn khổ cho việc đo
lường hội nhập tài chính đều
tập trung vào việc xác định
có tồn tại hay không các rào
cản tác động không cân xứng
đến các thị trường khác nhau.
Cách tốt nhất để đo lường
hội nhập tài chính là có thể
tìm ra tất cả các rào cản đối
với hội nhập và kiểm tra xem
chúng có tồn tại hay không.
Tuy nhiên, việc tìm ra đầy đủ
các yếu tố đó là không thể.
Vì vậy, một cách khác được
sử dụng để đo lường mức độ
hội nhập tài chính là sử dụng
giá cân bằng, mức giá phản
ánh tất cả các thông tin trong
đó có cả tác động của các rào
cản. Quy luật một giá được áp
dụng trong việc đo lường mức
độ hội nhập tài chính.
Có rất nhiều phương pháp để
đánh giá và đo lường mức
độ hội nhập của thị trường
TPCP được đưa ra trong
nhiều nghiên cứu trước đây
như phương pháp dựa vào
giá, phương pháp dựa vào
thông tin, phương pháp định
lượng nhằm đánh giá mức độ
hội nhập tài chính tại một số
thị trường như Ấn Độ, khu
vực Châu Âu, khu vực Châu
Á, Châu Phi, các thị trường
mới nổi, thị trường đang
phát triển (Garcia-Herrero và
Wooldrige, 2007; Sy, 2006;
Baele et al, 2004; Park, 2006;
và Cowen et al, 2006).
Phương pháp dựa vào giá
được xây dựng trên việc kiểm
tra quy luật một giá có tồn tại
không một cách trực tiếp bằng
cách đo sự chênh lệch về giá
hoặc lợi nhuận trên tài sản do
nguồn gốc địa lý của tài sản
tạo ra. Nếu các tài sản giống
nhau một cách tương đối thì
khi sử dụng phương pháp
này có thể so sánh trực tiếp
giá hoặc lãi suất; nếu không
thì khi đo lường mức độ hội
nhập cần tính đến sự khác
biệt trong các yếu tố rủi ro hệ
thống và các đặc điểm quan
trọng khác.
Phương pháp dựa vào thông
tin được thiết kế để đánh giá
mức độ hội nhập dựa trên các
ảnh hưởng của thông tin. Cụ
thể, trong một khu vực hội
nhập tốt, danh mục đầu tư cần
được đa dạng hoá tốt. Tức là
những thông tin như thông tin
kinh tế mới của một quốc gia
trong khu vực ít có ảnh hưởng
đến giá, trong khi đó các
thông tin chung hoặc thông tin
toàn cầu trở nên quan trọng
hơn.
Phương pháp thứ ba là phương
pháp dựa vào lượng, lượng
hoá các tác động của các rào
cản đối với nhu cầu và nguồn
cung của cơ hội đầu tư bằng
cách sử dụng số liệu thống kê
phản ánh thông tin về sự dễ
dàng tiếp cận thị trường như
các hoạt động xuyên biên giới
hay niêm yết chéo, dữ liệu về
việc nắm giữ tài sản xuyên
biên giới của một số NĐT tổ
chức, nhằm phản ánh có hay
không sự ưu tiên hơn khi lựa
chọn đầu tư trong nước hay
ngoài nước. Không có phương
pháp nào có thể sử dụng cho
tất cả các thị trường, bởi cấu
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
13Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
trúc từng thị trường khác nhau
và mức độ tiếp cận thông tin
khác nhau (Baele và cộng sự,
2004; ECB, 2006).
Dựa vào các phương pháp đó,
Ngân hàng Trung ương Châu
Âu (ECB) đã xây dựng bộ chỉ
số đánh giá mức độ hội nhập
tài chính bao gồm các chỉ số
về giá, chỉ số về lượng, và chỉ
số cơ sở hạ tầng (Baele et al,
2004; ECB, 2006). Bộ chỉ số
này được xây dựng cho từng
phân khúc thị trường tài chính
bao gồm cả thị trường trái
phiếu Chính phủ.
Bộ chỉ số đánh giá mức độ
hội nhập của thị trường trái
phiếu chính phủ
Các chỉ số về giá
Theo phương pháp dựa vào
giá, nếu hội nhập tài chính xảy
ra ở đâu thì ở nơi đó quy luật
một giá phải tồn tại (Baele và
cộng sự, 2004). Quy luật một
giá cho rằng tài sản có đặc
điểm giống nhau có cùng rủi
ro thì không phân biệt nguồn
gốc địa lý của tài sản, các
tài sản này phải có cùng thu
nhập kỳ vọng, do đó chúng
cần được trao đổi ở một mức
giá. Trên thị trường TPCP,
đánh giá thị trường hội nhập
tốt hay không là đánh giá xem
quy luật một giá có tồn tại
không, tức là lãi suất các loại
trái phiếu có những đặc điểm
liên quan giống nhau, kỳ hạn
như nhau, tương tự về mức
độ rủi ro có bằng nhau hoặc
tiệm cận nhau không (sử dụng
phương pháp đo lường này
cần giả định loại bỏ rủi ro tín
dụng, coi như rủi ro tín dụng
không đóng vai trò quan trọng
trong việc định giá TPCP).
Đây là thước đo trực tiếp mức
độ hội nhập. Để dễ dàng và
chính xác trong đánh giá hội
nhập, điều quan trọng là phải
lựa chọn được một thị trường
tham chiếu để làm cơ sở so
sánh mức lãi suất bởi rất khó
có thể đánh giá mức độ hội
nhập của thị trường TPCP một
quốc gia nếu chỉ đơn thuần
so sánh mức lãi suất TPCP
đó cao hơn, thấp hơn hay
ngang bằng các mức lãi suất
TPCP của tất cả các quốc gia
khác có các mức độ hội nhập
khác nhau. Thị trường tham
chiếu được lựa chọn là các thị
trường đã được đánh giá từ
trước là có mức độ hội nhập
sâu rộng, tuân theo tuyệt đối
hoặc tương đối quy luật một
giá, do đó mức lãi suất TPCP
trên thị trường này có thể
được sử dụng để làm cơ sở so
sánh lãi suất, từ đó đánh giá
mức độ hội nhập của các thị
trường khác. Dựa vào nguyên
tắc này, chỉ số được sử dụng
nhiều nhất khi đánh giá hội
nhập là mức chênh lệch giữa
lãi suất của TPCP một quốc
gia với lãi suất TPCP của một
quốc gia khác được lấy làm
tham chiếu. Mức độ hội nhập
càng cao thì sự chênh lệch lãi
suất càng tiến dần tới 0.
Mức chênh lệch lãi suất được
tính bằng công thức:
S
t
= y
c,t
– y
b,t
(1.1)
S
t
: Mức độ chênh lệch ngày t
Y
c,t
: Lãi suất TPCP của quốc
gia hội nhập ngày t
Y
b,t
: Lãi suất TPCP của quốc
gia tham chiếu ngày t
Theo phương pháp dựa vào
thông tin, thị trường càng hội
nhập thì lãi suất trái phiếu
chịu tác động của các yếu tố
chung nhiều hơn là các yếu
tố địa phương. Theo phương
pháp này, hai chỉ số được sử
dụng là chỉ số beta hội tụ và
hệ số chặn α. Các chỉ số này
cho phép xem xét tương quan
giữa sự thay đổi lãi suất TPCP
của một quốc gia với sự thay
đổi trong lãi suất TPCP của
một quốc gia tham chiếu, thể
hiện sự thay đổi lãi suất trái
phiếu chịu ảnh hưởng của các
yếu tố chung hay các yếu tố
riêng biệt, đặc thù của từng
quốc gia.
Mô hình được áp dụng để xác
định chỉ số beta hội tụ và hệ
số chặn α là:
ΔR
c,t
= α
c,t
+ β
c,t
ΔR
b,t
+ ε
c,t
(1.2)
ΔR
c,t
: Sự thay đổi lãi suất
TPCP của quốc gia đánh giá
hội nhập
ΔR
b,t
: Sự thay đổi lãi suất
TPCP tham chiếu
α là hệ số chặn thay đổi theo
quốc gia và thời gian
ε
c,t
: Biến nhiễu
Hệ số α và β được xác định
bằng cách ước lượng mô hình
trên sử dụng dữ liệu của lãi
suất TPCP trung bình theo
tháng trong 18 tháng đầu giai
đoạn nghiên cứu. Sau đó, dữ
liệu được di chuyển lên theo
từng tháng và phương trình
được ước tính lại cho đến khi
đạt được đến quan sát cuối
cùng. Khi đó sẽ có một chuỗi
hệ số α và β theo thời gian.
+ Tại một thị trường hội nhập
hoàn toàn, những thay đổi lãi
suất của một quốc gia không
nên lớn hơn hoặc nhỏ hơn một
cách có hệ thống so với thị
trường tham chiếu chuẩn. Vì
vậy hệ số α nên tiến tới 0.
+ Hệ số β thể hiện tương quan
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
giữa hiệp phương sai biến
động lãi suất của thị trường
hội nhập với thị trường chuẩn
và phương sai của mức thay
đổi lãi suất thị trường tham
chiếu.
( )
( , )
Var R
Cov R R
,
,
, ,
, ,
,
,
i t
t b t
t i t b t
i b t
b t
i t
1
1
b
t v
v
D
D D
=
=
-
-
Cov
t-1
và Var
t-1
là chỉ số
hiệp phương sai và phương
sai tương ứng, ρ
i,b,t
là hệ số
tương quan có điều kiện giữa
sự thay đổi lãi suất TPCP của
một quốc gia với sự thay đổi
lãi suất TPCP của quốc gia
tham chiếu, σ
i,t
và σ
b,t
là độ
lệch chuẩn của những thay
đổi lãi suất của quốc gia hội
nhập và quốc gia tham chiếu.
Như vậy hệ số β phụ thuộc
vào hệ số tương quan sự thay
đổi lãi suất quốc gia hội nhập
và quốc gia tham chiếu, đồng
thời phụ thuộc vào tỷ lệ giữa
độ lệch chuẩn quốc gia hội
nhập và quốc gia tham chiếu.
Khi hội nhập tăng, lãi suất
thay đổi do tác động của các
yếu tố chung và hệ số tương
quan nên tiến gần đến 1.
Tương tự, mức độ biến động
của thay đổi lãi suất TPCP của
quốc gia hội nhập nên giống
với biến động của thay đổi lãi
suất TPCP của quốc gia tham
chiếu. Vì vậy hệ số β sẽ tiến
tới 1.
Các chỉ số lượng hoá
Năm 2010, Broos giới thiệu
một phương pháp đo lường
mức độ hội nhập tài chính
của thị trường TPCP khá đơn
giản. Trái phiếu phát hành bởi
Chính phủ một quốc gia có thể
được mua bởi nhiều chủ thể
tham gia trên thị trường, cả
NĐT trong và ngoài nước. Khi
thị trường hội nhập, Chính
phủ thúc đẩy tăng cường sở
hữu nước ngoài đối với TPCP.
Mức độ sở hữu của NĐT nước
ngoài đối với TPCP là một chỉ
số phản ánh mức độ hội nhập
tài chính của quốc gia. Sở
hữu nước ngoài thấp có thể do
tính minh bạch của thị trường
thấp, nghi ngại về mức độ rủi
ro cao của nước phát hành,
những cản trở trong việc chia
sẻ thông tin xuyên biên giới
hoặc rào cản đối với các dòng
vốn quốc tế trên thị trường
trái phiếu. Tất cả đều phản
ánh mức độ kém hội nhập của
thị trường. Sở hữu nước ngoài
lớn cho thấy một thị trường
xuyên biên giới cho TPCP
được tổ chức tốt và thị trường
đã có mức độ mở cửa nhất
định. Mức độ hội nhập của thị
trường TPCP còn có thể được
đánh giá thông qua các hoạt
động xuyên biên giới trên thị
trường nợ dài hạn như hoạt
động đầu tư, nắm giữ TPCP
của các tổ chức tài chính. Một
số chỉ số được xây dựng dựa
vào lý thuyết đó:
- Tỷ lệ TPCP được nắm giữ
bởi các NĐT nước ngoài là
công dân các nước trong khu
vực hội nhập và tỷ lệ TPCP
được nắm giữ bởi các NĐT
nước ngoài nằm ngoài khu
vực hội nhập được sử dụng để
phản ánh mức độ hội nhập của
thị trường.
- Tỷ lệ nắm giữ TPCP của các
tổ chức tài chính tiền tệ ở các
quốc gia trong khu vực hội
nhập. Các tổ chức tài chính
tiền tệ trong khu vực hội nhập
có xu hướng sở hữu ngày càng
nhiều trái phiếu của các quốc
gia khác.
- Tỷ lệ nắm giữ TPCP do các
quốc gia khác phát hành của
các quỹ đầu tư thuộc quốc
gia đang đánh giá hội nhập.
Số liệu có thể được lấy từ các
quỹ đầu tư và chia theo loại
quỹ.
Ngoài ra có thể sử dụng chỉ
số tỷ lệ phát hành TPCP ra
thị trường quốc tế để đánh
giá mức độ hội nhập của thị
trường TPCP một quốc gia bởi
đây chính là hoạt động tham
gia huy động vốn trên thị
trường quốc tế, phản ánh sự
hội nhập.
Chỉ số về cơ sở hạ tầng
Ngoài ra, hội nhập tài chính
còn được đánh giá thông qua
sự hội nhập về cơ sở hạ tầng.
Hệ thống lưu ký, thanh toán
bù trừ trái phiếu hiệu quả và
an toàn là điều kiện rất quan
trọng cho một thị trường vốn
hội nhập, đảm bảo cho giao
dịch và thanh toán. Khi một
quốc gia hội nhập tài chính,
đòi hỏi sự liên kết của hệ
thống thanh toán và lưu ký
chung. Một chỉ số được sử
dụng phản ánh sự liên kết giữa
các hệ thống lưu ký, thanh
toán bù trừ trái phiếu giữa
một quốc gia hội nhập với
các quốc gia khác trong khu
vực đó là số lượng các liên
kết chính thức được thực hiện
giữa các trung tâm thanh toán,
bù trừ TPCP cho hoạt động
giao dịch trong khu vực hội
nhập.
3. Kết quả áp dụng bộ chỉ
số đánh giá mức độ hội nhập
thị trường TPCP Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
15Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
Áp dụng các phương pháp
đánh giá mức độ hội nhập
của thị trường TPCP đã
được sử dụng ở một số
nghiên cứu trước và bộ chỉ
số đánh giá hội nhập của
Châu Âu, tác giả đánh giá
mức độ hội nhập của thị
trường TPCP Việt Nam
thông qua một số chỉ số
đánh giá mức độ hội nhập
phù hợp với điều kiện thị
trường Việt Nam và nguồn
số liệu có thể khai thác
được.
Khi đánh giá mức độ hội
nhập thị trường TPCP
Việt Nam, tác giả sử dụng
thị trường Thái Lan là thị
trường tham chiếu trong
kh