Công nghệ enzyme có nhiều ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực công nghệ thực phẩm. Trong đó, enzyme amylase
được sử dụng phổ biến để cải thiện cấu trúc của sản phẩm bánh mì không gluten. Nghiên cứu được thực hiện
bằng việc bổ sung enzyme amylase (α, β, γ - amylase) với các tỷ lệ khác nhau trong khối bột nhào, ở nhiệt độ 65oC,
trong thời gian 30 phút. Kết quả khẳng định, bổ sung enzyme amylase trong quá trình nhào đã hỗ trợ cải thiện rõ
cấu trúc, thể tích và độ cứng cho sản phẩm. Trong đó, enzyme β-amylase đạt hiệu quả nhất giúp duy trì thể tích
(278 cm3), tăng điểm đánh giá cảm quan (4,6/5) và giảm độ cứng (370 g/mm) của sản phẩm hơn so với 2 enzyme α
và γ- amylase.
                
              
                                            
                                
            
 
             
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng enzyme amylase để cải tiến cấu trúc của bánh mì không gluten, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
SỬ DỤNG ENZYME AMYLASE ĐỂ CẢI TIẾN CẤU TRÚC 
CỦA BÁNH MÌ KHÔNG GLUTEN
Lê  ị Kim Loan1, Nguyễn Minh  ủy2
TÓM TẮT
Công nghệ enzyme có nhiều ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực công nghệ thực phẩm. Trong đó, enzyme amylase 
được sử dụng phổ biến để cải thiện cấu trúc của sản phẩm bánh mì không gluten. Nghiên cứu được thực hiện 
bằng việc bổ sung enzyme amylase (α, β, γ - amylase) với các tỷ lệ khác nhau trong khối bột nhào, ở nhiệt độ 65oC, 
trong thời gian 30 phút. Kết quả khẳng định, bổ sung enzyme amylase trong quá trình nhào đã hỗ trợ cải thiện rõ 
cấu trúc, thể tích và độ cứng cho sản phẩm. Trong đó, enzyme β-amylase đạt hiệu quả nhất giúp duy trì thể tích 
(278 cm3), tăng điểm đánh giá cảm quan (4,6/5) và giảm độ cứng (370 g/mm) của sản phẩm hơn so với 2 enzyme α 
và γ- amylase.
Từ khóa: Amylase, bánh mì không gluten, cấu trúc, độ cứng, thể tích 
1 Khoa Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang
2 Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần  ơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bánh mì là một trong những loại thực phẩm 
được sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới, trong 
đó có Việt Nam. Tuy nhiên, số người không dung 
nạp, dị ứng gluten và bệnh celiac ngày càng tăng nên 
nhu cầu về bánh mì không gluten là rất lớn. Đây là 
một cơ hội và cũng là thách thức rất lớn của các nhà 
nghiên cứu để tìm ra phương pháp tối ưu để sản xuất 
bánh mì không gluten (Ludvigsson et al., 2014).
 ành phần chính của bánh mì là tinh bột, có thể 
được tìm thấy trong một số loại bột không gluten 
như gạo, sắn, ngô, khoai tây (Ferreira et al., 2019). 
Gạo màu có lượng tinh bột, protein, khoáng chất 
và vitamin B cao. Trong gạo màu còn có các hợp 
chất phytochemical quan trọng cho sức khỏe như 
anthocyanin, proanthocyanidin và carotenoids, do 
đó chất lượng dinh dưỡng cao (Almeida et al., 2019). 
Trong các loại bột, bột gạo có nhiều ưu điểm để lựa 
chọn thay thế bột mì do có hương thơm nhẹ, hàm 
lượng natri thấp, tinh bột dễ tiêu hóa và không gây 
dị ứng (Gujral and Rosell, 2004).
Bánh mì không gluten có đặc điểm kém là bánh 
không nở, cứng và không giữ được độ tươi do thiếu 
khung gluten (Gallagher et al., 2003). Bên cạnh việc 
chọn lựa loại bột thích hợp, sử dụng chất phụ gia 
tốt thì việc bổ sung enzyme vào bột nhào giúp rút 
ngắn thời gian lên men, tăng cơ chất cho quá trình 
lên men là cần thiết. Enzyme thường được bổ sung 
để thay đổi trạng thái của bột nhào, tăng khả năng 
giữ khí, cải thiện cấu trúc và làm giảm sự hình thành 
acrylamide trong các sản phẩm bánh mì (Dange 
et al., 2018). Amylase là enzyme phổ biến nhất trong 
sản xuất bánh mì. Một số enzyme amylase có thể làm 
giảm độ cứng và sự hư hỏng của bánh. Sự hư hỏng 
giảm là do sự tương tác của các phân tử dextrin có 
trọng lượng phân tử thấp với nhau hình thành mạng 
lưới liên kết, chống thoái hóa tinh bột (Hug-Iten 
et al., 2003). Chính vì thế, việc sử dụng amylase để 
cải tiến cấu trúc của bánh mì không gluten là cần 
thiết để tạo ra một sản phẩm bánh mì có chất lượng 
tốt, đặc biệt phù hợp với người bị bệnh celiac.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Lúa cẩm được trồng tại huyện Cai Lậy, tỉnh 
Tiền Giang. Lúa được thu hoạch về, phơi khô đến 
độ ẩm nhỏ hơn 13%, sau đó tách vỏ trấu tại công 
ty lương thực Tiền Giang. Gạo cẩm được xay đến 
kích thước < 105 µm, kết hợp với tinh bột khoai 
tây ( ái Lan), bột đậu nành (Hương Quê), bột 
bắp (Roquette, France), bột đường (Biên Hòa), 
sữa tươi không đường (Vinamilk), dầu, muối tinh 
(Visaico), maltodextrin (HBK, Đức), bột trứng 
(Vietfarm), HPMC (ShinEtsu, Nhật), nước, nấm 
men (Saccharomyces cerevisiae-Mauri) ở tỷ lệ cố 
định và các enzyme amylase (enzyme α, β, γ-amylase 
-Novozymes, Đan Mạch) thay đổi ở các tỷ lệ trong 
công đoạn phối trộn. Sau khi phối trộn 30 phút 
ở 65oC, khối bột nhão được vô khuôn tạo hình, lên 
men trong thời gian 30 phút và nướng bánh ở nhiệt 
độ 175oC. Bánh lấy ra khỏi lò, để ổn định trong 
1 giờ và tiến hành xác định các chỉ tiêu cần thiết của 
thí nghiệm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đo độ cứng của bánh mì bằng phương pháp 
AACC 74-09 (AACC, 2000).  iết bị sử dụng là máy 
CT3 (Brook eld, Mỹ). Mẫu bánh mì được cắt ở dạng 
61
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
lát với chiều dày đồng nhất là 25 mm (hoặc hai lát có 
chiều dày 12,5 mm). Mẫu được đặt dưới đầu dò hình 
trụ đường kính 38,1 mm (TA4). Bánh mì được nén 
3 mm với tải trọng cực đại. Độ cứng được xác định 
là lực đỉnh (lực nén cực đại) trong chu kỳ nén đầu 
tiên. Dữ liệu được xác định bằng phần mềm Texture 
Export Exceed. Mỗi mẫu được đo 3 lần.
- Đo thể tích của sản phẩm bằng phương pháp 
vật rắn chiếm chỗ AACC 10-05 (AACC, 2010).
- Sản phẩm được đánh giá cảm quan theo 
thang điểm mô tả định lượng QDA (Quantitative 
Descriptive Analysis).  ành lập hội đồng đánh giá 
cảm quan gồm 7 thành viên, có am hiểu chuyên môn 
về đánh giá chất lượng thực phẩm. Chỉ tiêu cảm 
quan của bánh cần xác định là cấu trúc được xây 
dựng theo thang điểm từ 1 đến 5 (giá trị cảm quan 
từ kém đến tốt).
- Phân tích thống kê theo chương trình 
Statgraphics XVI. Sự khác nhau giữa các trung bình 
nghiệm thức được so sánh thông qua LSD (Least 
Signi cant Di erence) ở mức ý nghĩa ≤ 5%.
2.3.  ời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2019 đến 
tháng 5/2020 tại phòng thí nghiệm Bộ môn Công 
nghệ thực phẩm - Trường Đại học Tiền Giang và 
Cần  ơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Ảnh hưởng của enzyme α-amylase đến cấu 
trúc bánh mì không gluten
Dưới tác dụng của α-amylase, tinh bột chuyển 
thành maltotetrose, maltose, glucose và dextrin thấp 
phân tử. Trong quá trình lên men, các hợp chất thấp 
phân tử tiếp tục được thủy phân tạo thành glucose, 
bổ sung cơ chất cho nấm men hoạt động, tạo cấu 
trúc đáp ứng yêu cầu công nghệ chế biến và nhu 
cầu của người tiêu dùng (Goesaert et al., 2005).  í 
nghiệm được bố trí với nồng độ enzyme α-amylase 
bổ sung lần lượt là 0%, 0,25%, 0,5%, 0,75%, 1%. Kết 
quả ảnh hưởng của nồng độ α-amylase đến cấu trúc, 
độ cứng và thể tích của bánh được thể hiện ở bảng 1.
Mẫu A1, A2 là mẫu đối chứng và mẫu được bổ 
sung 0,25% enzyme α-amylase. Kết quả cho thấy 
khối bột nở khá thấp ở giai đoạn ủ bánh, khi nướng 
do không có khung gluten nên không thể giữ được 
thể tích lúc lên men. Mẫu A2 có cấu trúc khá mềm, lỗ 
xốp bánh nhỏ hơn mẫu A1. Trong mẫu A2, enzyme 
α-amylase đã thủy phân tinh bột thành maltose 
và glucose tạo cơ chất cho nấm men hoạt động. 
Tuy nhiên, lượng enzyme bổ sung vào thấp nên 
lượng cơ chất tạo ra không đủ đáp ứng được nhu cầu 
hoạt động của nấm men. Sau khi nướng bề mặt bánh 
co lại, nứt, các lỗ khí không đều và thể tích giảm. 
Độ cứng của bánh cao, không được người tiêu dùng 
đánh giá tốt.
Bảng 1. Kết quả ảnh hưởng của lượng enzyme 
α-amylase đến cấu trúc, độ cứng và thể tích
 của sản phẩm
Mẫu
Điểm 
đánh giá 
cảm quan 
về cấu trúc
 ể tích (cm3) Độ 
cứng 
(g/mm)
Sau khi 
ủ
Sau khi 
nướng
A1 4,02e 274e 241e 468a
A2 4,38c 286d 249c 410c
A3 4,55a 293c 270a 380e
A4 4,42b 300b 259b 373d
A5 4,24d 312a 247d 420b
Ghi chú: Các giá trị trên cùng của một cột có chữ 
cái thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê; A1, A2, A3, A4, A5 là lượng 
enzyme α-amylase bổ sung lần lượt là 0%, 0,25%, 0,5%, 
0,75%, 1% .
Mẫu A3, bổ sung 0,5% α-amylase cho thấy bánh 
sau khi nướng bề mặt bánh mềm, khá mịn, ít nứt, 
thể tích sau khi nướng cao, lỗ xốp ruột bánh khá 
nhỏ, tương đối đồng đều, bề mặt bánh hơi lõm, thể 
tích sau khi nướng là 270 cm3, giảm so với quá trình 
lên men là 293 cm3. Với lượng enzyme sử dụng là 
0,5% tạo ra được lượng đường cần thiết, cùng lượng 
đường có sẵn giúp nấm men hoạt động, tạo CO2 đều, làm tăng thể tích, giảm độ cứng (380 g/mm), điểm 
đánh giá cảm quan về cấu trúc đạt 4,55. 
Đối với mẫu A4, và A5, khi bổ sung 0,75% và 
1% α-amylase, cho thấy bề mặt bánh mịn nhưng 
phần giữa bánh lõm xuống, độ cứng cao. Do lượng 
enzyme sử dụng khá nhiều nên thúc đẩy quá trình 
thủy phân diễn ra nhanh, tạo nhiều CO2, khi nướng khí thoát ra ngoài nhanh, tạo nên vết nứt lớn, hình 
thành vết lõm trên bề mặt bánh.
Kết quả xác định khi bổ sung enzyme α-amylase 
đã thúc đẩy quá trình thủy phân xảy ra nhanh, cung 
cấp nhiều cơ chất cho nấm men hoạt động, tạo CO2 làm tăng thể tích, giảm độ cứng của bánh. Tuy nhiên, 
nếu lượng CO2 tạo ra nhiều, khí thoát ngoài nhanh, bánh bị nứt, thể tích giảm. Như vậy, lượng enzyme 
α-amylase bổ sung ở nồng độ 0,5% là hiệu quả trong 
việc cải thiện cấu trúc của bánh. Sự hiện diện của 
62
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
enzyme α-amylase trong bột nhào làm mềm bánh, 
tăng thể tích được khẳng định bởi nhiều tác giả. 
Lagrain và cộng tác viên (2008) đã xác định thể tích 
riêng của bánh tăng 30% so với bánh không sử dụng 
enzyme. Số lượng các lỗ khí tăng 25% so với mẫu đối 
chứng. Patel và cộng tác viên (2012) báo cáo rằng 
việc kết hợp α-amylase ở liều lượng thích hợp đã cải 
thiện quá trình xử lý bột, bánh có chất lượng tốt. 
α - amylase thường được sử dụng để cải thiện cấu trúc 
và giảm độ dính của bánh mì (Barrera et al., 2015).
3.2. Ảnh hưởng của enzyme β-amylase đến cấu 
trúc bánh mì không gluten
β-amylase (EC 3.2.1.2) là exoamylase sử dụng 
cơ chế đảo ngược để tách các liên kết α-glycozid ở 
đầu không khử của amyloz và amylopectin, tạo ra 
maltose, dextrin có trọng lượng phân tử thấp, ở dạng 
β-anomeric (Synowiecki, 2007). Kết quả thí nghiệm 
ảnh hưởng của lượng enzyme β-amylase bổ sung 
vào trong quá trình phối trộn lần lượt là 0%, 0,05%, 
0,1%, 0,15%, 0,2% được thể hiện ở hình 1. 
Hình 1. Ảnh hưởng của lượng enzyme β-amylase bổ sung 
đến cấu trúc, thể tích và độ cứng của sản phẩm
Ghi chú: Điểm đánh giá cảm quan về cấu trúc được 
quy theo tỷ lệ % của thang điểm 5. B1, B2, B3, B4, B5 là lượng enzyme β-amylase bổ sung lần lượt là 0%, 0,05%, 
0,1%, 0,15%, 0,2%.
Tương tự như kết quả sử dụng enzyme α-amylase, 
khi bổ sung enzyme β-amylase ở liều lượng rất thấp 
(0,05%) hay rất cao (0,15%, 0,2%) cho thấy bề mặt 
bánh hơi lõm, kém mịn, ruột bánh bên trong mềm 
hoặc dai, thể tích sau nướng thấp. Chính vì thế, điểm 
đánh giá cảm quan của các mẫu này thấp. Riêng mẫu 
B3, bổ sung 0,1% enzyme β-amylase, kết quả khẳng 
định bánh sau khi nướng nở tốt, bề mặt bánh mịn, 
nứt rất ít, thể tích bánh sau khi nướng đạt 278 cm3 
giảm nhẹ so với sau quá trình lên men là 289 cm3. 
Cấu trúc ruột bánh mềm, lỗ xốp bánh nhỏ, độ cứng 
thấp 370 g/mm. Giá trị cảm quan đánh giá về cấu trúc 
đạt cao 4,6/5. Như vậy, sử dụng enzyme β-amylase 
hỗ trợ tăng thể tích, cấu trúc và giảm độ cứng của 
sản phẩm bánh mì không gluten. Aoki (2018) xác 
định rằng sử dụng enzyme β-amylase 30 U giảm độ 
cứng từ 5N còn 3N (Miao, et al., 2015) chứng minh 
β-amylase đã cải thiện bề mặt sản phẩm làm từ tinh 
bột. Ngoài bánh mì, β-amylase còn hiệu quả trong 
việc ngăn ngừa thoái hóa, kéo dài thời gian bảo quản 
của bánh gạo (Dang et al., 2015).
3.3. Ảnh hưởng của enzyme γ-amylase đến cấu 
trúc của bánh mì không gluten
Gama-amylase có khả năng thuỷ phân các liên 
kết α-1,4 lẫn α-1,6-glucoside. Khi thuỷ phân liên 
kết α-l,4-glucoside trong chuỗi polysaccharide, 
γ-amylase tách lần lượt từng phân tử glucose ra khỏi 
đầu không khử của mạch tạo cơ chất cho quá trình 
lên men (Nguyễn Đức Lượng và ctv., 2004). Kết quả 
ảnh hưởng của lượng enzyme γ-amylase đến thể tích 
và độ cứng của các mẫu khảo sát được thể hiện qua 
bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của enzyme γ-amylase 
đến điểm đánh giá cảm quan về cấu trúc, thể tích 
và độ cứng của sản phẩm
Mẫu
Điểm 
đánh giá 
cảm quan 
về cấu trúc
 ể tích (cm3) Độ 
cứng
(g/mm)
Sau khi 
ủ
Sau khi 
nướng
C1 4,02e 275e 240d 472
C2 4,23c 283d 244c 430
C3 4,47a 295c 266a 400
C4 4,30b 305b 256b 415
C5 4,13d 310a 246c 450
F ** ** ** **
CV (%) 8,5 4,5 6,7 6,2
Ghi chú: Các giá trị trên cùng của một cột có chữ 
cái thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê; (**): thể hiện sự khác biệt ý 
nghĩa ở mức 1%. C1, C2, C3, C4, C5: lượng enzyme 
γ-amylase bổ sung lần lượt là 0%, 0,05%, 0,1%, 
0,15%, 0,2% .
Kết quả bảng 2 cho thấy lượng enzyme γ-amylase 
bổ sung đã cải thiện độ cứng, thể tích và giá trị cảm 
quan về cấu trúc của sản phẩm. Lượng enzyme bổ 
sung càng cao thì thể tích bánh sau quá trình lên 
men càng tăng, khí CO2 thoát ra nhanh trong quá trình nướng, nên thể tích bánh giảm, ruột bánh dai. 
Đối với mẫu C3, lượng enzyme bổ sung là 0,1%, 
63
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
cho thấy sau khi nướng bánh nở tốt đạt thể tích là 
266 cm3, cấu trúc bánh mềm, lỗ xốp ruột bánh đều 
hơn mẫu C2. Lượng enzyme được bổ sung thích hợp 
nên thể tích của mẫu C3 đạt giá trị cao và cấu trúc 
ổn định, độ cứng thấp 400 g/mm. Giá trị cảm quan 
trung bình về cấu trúc đạt 4,47. Kết quả khẳng định 
lượng enzyme γ-amylase thích hợp trong sản xuất 
bánh mì là 0,1%. Trong sản xuất bánh mì và bánh 
ngọt ở Đan Mạch, γ-amylase được sử dụng để tăng 
cường quá trình lên men (Diler et al., 2015). 
Qua kết quả các thí nghiệm cho thấy việc bổ 
sung enzyme amylase trong quá trình nhào trộn 
giúp cải thiện rõ cấu trúc, thể tích và độ cứng sản 
phẩm. Nguyên nhân là các enzyme này đã cải 
thiện tính chất giữ khí của bột lên men và giảm 
độ nhớt của bột trong quá trình hồ hóa (Goesaert 
et al., 2005). Enzyme α-amylase phân hủy tinh bột 
thành các dextrin trọng lượng phân tử thấp, trong 
khi β-amylase chuyển hóa thành maltose (Goesaert 
et al., 2005). Sự hiện diện của đường giúp hình 
thành phản ứng Maillard, tăng cường hương, vị và 
màu vỏ bánh mì. Mỗi loại enzyme bổ sung trong 
quá trình thực hiện tạo ra lượng đường khác nhau 
nên sản phẩm hình thành có thể tích, cấu trúc và 
độ cứng cũng khác nhau. Khi thể tích bánh sau khi 
ủ càng cao thì khi nướng khí thoát ra càng nhanh, 
bánh càng bị xẹp, độ cứng càng tăng. Kết quả của 
thí nghiệm cho thấy mẫu bổ sung enzyme β-amylase 
có thể tích bánh đạt được cao nhất 278 cm3 cao hơn 
mẫu bổ sung enzyme α-amylase 270 cm3 và enzyme 
γ-amylase là 266 cm3. Từ số liệu thu được của các 
thí nghiệm trên nhận thấy bổ sung 0,1% enzyme 
β-amylase vào quá trình nhào trộn đạt được kết quả 
tốt hơn hai loại enzyme còn lại.
3.4. Đánh giá chất lượng sản phẩm
Kết thúc các thí nghiệm nghiên cứu cho thấy khi 
bổ sung enzyme vào quy trình sản xuất tạo ra được 
sản phẩm bánh mì không gluten đạt hiệu quả về các 
thông số vật lý.  ành phần hóa học của sản phẩm 
được kiểm tra thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3.  ành phần hóa học 
trong sản phẩm bánh mì không gluten
 ành phần Đơn vị tính Hàm lượng
Chất béo % 6,4
Carbohydrate % 50,1
Đường tổng % 10,1
Protein % 9,2
Nước % 30,2
Kết quả phân tích chỉ tiêu hóa học cho thấy bánh 
mì không gluten có độ ẩm cao, sản phẩm có mùi 
thơm đặc trưng của bánh nướng, bơ, sữa, vị ngọt hài 
hòa, thích hợp cho mọi lứa tuổi, Sản phẩm có hàm 
lượng tinh bột, protein và chất béo khá cao nên cung 
cấp nhiều calo cho cơ thể.
Sản phẩm được đánh giá cảm quan các chỉ tiêu 
về màu sắc, mùi, vị, cấu trúc. Kết quả được thể hiện 
ở bảng 4.
Bảng 4. Đánh giá cảm quan chất lượng sản phẩm 
theo TCVN 3125-79
Chỉ tiêu Điểm trung bình
Hệ số 
quan trọng
Điểm có 
trọng số
Màu sắc 4,4 1,2 5,3
Mùi 4,3 0,8 3,4
Vị 4 0,8 3,2
Cấu trúc 4,5 1,2 5,4
Tổng điểm 17,3
Qua kết quả đánh giá cảm quan chất lượng sản 
phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3125-79 cho 
thấy điểm trung bình có trọng số của sản phẩm lớn 
hơn 16 nên “Bánh mì gạo không gluten” đạt được 
chất lượng loại khá nên có thể sản xuất thử nghiệm 
trên thị trường như các loại bánh mì khác.
IV. KẾT LUẬN
 ực hiện xử lý khối bột nhào bằng enzyme 
amylase ở 65oC trong 30 phút với các nồng độ khác 
nhau cho thấy sản phẩm bánh mì không gluten có 
cấu trúc cao hơn so với mẫu đối chứng. Trong đó, 
enzyme β-amylase tạo ra lượng đường khử thích 
hợp trong quá trình thủy phân nên giữ được thể tích, 
bánh mềm và cấu trúc của sản phẩm tốt. Sản phẩm 
được mọi người đánh giá đạt loại khá. Với những kết 
quả tối ưu của enzyme β-amylase mang lại, enzyme 
này cần được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất bánh 
mì không gluten.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đức Lượng, Cao Cường, Huỳnh Ngọc Oanh, 
Nguyễn  ủy Hương, Phan  ụy Huyền, 2004. 
Công nghệ enzyme. Đại học Quốc gia HCM: 534pp.
AACC, 2000. Approved Methods of the AACC, Methods 
44-15.02, 10th ed. American Association of Cereal 
Chemists. St Paul, MN, USA.
AACC, 2010. Approved Methods of the AACC, Methods 
46-12.01.56-11. American Association of Cereal 
Chemists. St. Paul, MN, USD.
64
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
Almeida, R.L.J., Dos, S.P.T., Santiago, A.M., Oliveira, 
H.M.L., De Sousa, C.L., De Gusmao, R.P., 2019. 
In uence of enzymatic hydrolysis on the properties of 
red rice starch. Int. J. Biol. Macromol., 141: 1210-1219.
Aoki, N., 2018. Sweet potato  our decreases  rmness of 
gluten-free rice bread. Food Science and Technology 
Research, 24(1): 105-110.
Barrera, G.N., Leo´n, A.E., Ribotta, P.D., 2015. Use 
of enzymes to minimize the rheological dough 
problems caused by high levels of damaged starch in 
starch-gluten systems. J. Sci. Food Agric., 96: 2539-2546.
Dang, Nguyen D.H., Tran P.L., Ha, H.S., Lee, J.S., 
Hong, W.S., Le, Q.T., Oh, B.C., Park, S.H., 2015. 
Presence of b-amylase in ramie leaf and its antistaling 
e ect on rice cake. Food Sci. Biotechnol., 24: 37-40.
Dange, V.U., Sakhale, B.K. and Giri, N.A., 2018. 
Enzyme Application for Reduction of Acrylamide 
Formation in Fried Potato Chips. Curr. Res, Nutr. 
Food Sci. Jour., 6(1): 222-226.
Diler, G., Chevallier, S., Pohlmann, I., Guyon, C, 
Le-Bail, A., 2015. Assessment of amyloglucosidase 
activity during production and storage of laminated 
pie dough: Impact on raw dough properties and 
sweetness a er baking. J. Cereal Sci., 61: 63-70.
Ferreira, S., Araujo, T., Souza, N., Rodrigues, L., 
Lisboa, M., Rocha, A.P.,  2019. Physicochemical, 
morphological and antioxidant properties of spray-
dried mango Kernel starch. J. Agric. Food Res., 25: 
1-9.
Gallagher, E., T. Gormley, E. Arendt, 2003. Crust and 
crumb characteristics of gluten free breads. Food 
Engineering, 56(2-3): 153-161.
Goesaert, H., Brijs, K., Veraverbeke, W.S., Courtin, 
C.M., Gebruers, K., Delcour, J.A., 2005. Wheat 
 our constituents: how they impact bread quality, 
and how to impact their functionality. Trends in 
Food Science and Technology, 16(1-3): 12-30.
Gujral, H.S. and C.M. Rosell, 2004. Functionality of 
rice  our modi ed by microbial transglutaminase. J. 
Cereal Sci., 39: 225-230.
Hug-Iten, S., Escher, F., Conde-Petit, B., 2003. Staling 
of bread: Role of amylose and amylopectin and 
in uence of starch-degrading enzymes. Cereal 
Chemistry, 80(6): 654-661.
Lagrain, B., Leman, P., Goesaert, H., and Delcour, 
J.A., 2008. Impact of thermostable amylases during 
bread making on wheat bread crumb structure and 
texture. Food Research International, 41(8): 819-827. 
Ludvigsson, J.F., Leffler D.A., Bai, J.C, Biagi, F., 
Fasano, A., Green, P.H., Hadjivassiliou, M., 
Kaukinen, K., Kelly, C.P. and Leonard, J.N., 2014. 
 e Oslo de nitions for celiac disease and related 
terms. Gut, 62: 43-52.
Miao, M., Li, R., Huang, C., Zhang, T., 2015. Impact 
of b-amylase degradation on properties of sugary 
maize soluble starch particles. Food Chem., 177: 1-7. 
Patel, M.J., Ng J.H.Y., Hawkins W.E., Pitts K.F., 
Chakrabarti-Bell S., 2012. E ects of fungal 
α-amylase on chemically leavened wheat  our 
doughs. J. Cereal Sci., 56: 644-651.
Synowiecki J., 2007.  e use of starch processing 
enzymes in the food industry. In: Polaina J., MacCabe 
A.P. (eds.) Industrial Enzymes: Structure, function 
and applications. Dordrecht. Springer: 19-34.