Công nghệ enzyme có nhiều ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực công nghệ thực phẩm. Trong đó, enzyme amylase
được sử dụng phổ biến để cải thiện cấu trúc của sản phẩm bánh mì không gluten. Nghiên cứu được thực hiện
bằng việc bổ sung enzyme amylase (α, β, γ - amylase) với các tỷ lệ khác nhau trong khối bột nhào, ở nhiệt độ 65oC,
trong thời gian 30 phút. Kết quả khẳng định, bổ sung enzyme amylase trong quá trình nhào đã hỗ trợ cải thiện rõ
cấu trúc, thể tích và độ cứng cho sản phẩm. Trong đó, enzyme β-amylase đạt hiệu quả nhất giúp duy trì thể tích
(278 cm3), tăng điểm đánh giá cảm quan (4,6/5) và giảm độ cứng (370 g/mm) của sản phẩm hơn so với 2 enzyme α
và γ- amylase.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 18/06/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng enzyme amylase để cải tiến cấu trúc của bánh mì không gluten, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
SỬ DỤNG ENZYME AMYLASE ĐỂ CẢI TIẾN CẤU TRÚC
CỦA BÁNH MÌ KHÔNG GLUTEN
Lê ị Kim Loan1, Nguyễn Minh ủy2
TÓM TẮT
Công nghệ enzyme có nhiều ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực công nghệ thực phẩm. Trong đó, enzyme amylase
được sử dụng phổ biến để cải thiện cấu trúc của sản phẩm bánh mì không gluten. Nghiên cứu được thực hiện
bằng việc bổ sung enzyme amylase (α, β, γ - amylase) với các tỷ lệ khác nhau trong khối bột nhào, ở nhiệt độ 65oC,
trong thời gian 30 phút. Kết quả khẳng định, bổ sung enzyme amylase trong quá trình nhào đã hỗ trợ cải thiện rõ
cấu trúc, thể tích và độ cứng cho sản phẩm. Trong đó, enzyme β-amylase đạt hiệu quả nhất giúp duy trì thể tích
(278 cm3), tăng điểm đánh giá cảm quan (4,6/5) và giảm độ cứng (370 g/mm) của sản phẩm hơn so với 2 enzyme α
và γ- amylase.
Từ khóa: Amylase, bánh mì không gluten, cấu trúc, độ cứng, thể tích
1 Khoa Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang
2 Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần ơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bánh mì là một trong những loại thực phẩm
được sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Tuy nhiên, số người không dung
nạp, dị ứng gluten và bệnh celiac ngày càng tăng nên
nhu cầu về bánh mì không gluten là rất lớn. Đây là
một cơ hội và cũng là thách thức rất lớn của các nhà
nghiên cứu để tìm ra phương pháp tối ưu để sản xuất
bánh mì không gluten (Ludvigsson et al., 2014).
ành phần chính của bánh mì là tinh bột, có thể
được tìm thấy trong một số loại bột không gluten
như gạo, sắn, ngô, khoai tây (Ferreira et al., 2019).
Gạo màu có lượng tinh bột, protein, khoáng chất
và vitamin B cao. Trong gạo màu còn có các hợp
chất phytochemical quan trọng cho sức khỏe như
anthocyanin, proanthocyanidin và carotenoids, do
đó chất lượng dinh dưỡng cao (Almeida et al., 2019).
Trong các loại bột, bột gạo có nhiều ưu điểm để lựa
chọn thay thế bột mì do có hương thơm nhẹ, hàm
lượng natri thấp, tinh bột dễ tiêu hóa và không gây
dị ứng (Gujral and Rosell, 2004).
Bánh mì không gluten có đặc điểm kém là bánh
không nở, cứng và không giữ được độ tươi do thiếu
khung gluten (Gallagher et al., 2003). Bên cạnh việc
chọn lựa loại bột thích hợp, sử dụng chất phụ gia
tốt thì việc bổ sung enzyme vào bột nhào giúp rút
ngắn thời gian lên men, tăng cơ chất cho quá trình
lên men là cần thiết. Enzyme thường được bổ sung
để thay đổi trạng thái của bột nhào, tăng khả năng
giữ khí, cải thiện cấu trúc và làm giảm sự hình thành
acrylamide trong các sản phẩm bánh mì (Dange
et al., 2018). Amylase là enzyme phổ biến nhất trong
sản xuất bánh mì. Một số enzyme amylase có thể làm
giảm độ cứng và sự hư hỏng của bánh. Sự hư hỏng
giảm là do sự tương tác của các phân tử dextrin có
trọng lượng phân tử thấp với nhau hình thành mạng
lưới liên kết, chống thoái hóa tinh bột (Hug-Iten
et al., 2003). Chính vì thế, việc sử dụng amylase để
cải tiến cấu trúc của bánh mì không gluten là cần
thiết để tạo ra một sản phẩm bánh mì có chất lượng
tốt, đặc biệt phù hợp với người bị bệnh celiac.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Lúa cẩm được trồng tại huyện Cai Lậy, tỉnh
Tiền Giang. Lúa được thu hoạch về, phơi khô đến
độ ẩm nhỏ hơn 13%, sau đó tách vỏ trấu tại công
ty lương thực Tiền Giang. Gạo cẩm được xay đến
kích thước < 105 µm, kết hợp với tinh bột khoai
tây ( ái Lan), bột đậu nành (Hương Quê), bột
bắp (Roquette, France), bột đường (Biên Hòa),
sữa tươi không đường (Vinamilk), dầu, muối tinh
(Visaico), maltodextrin (HBK, Đức), bột trứng
(Vietfarm), HPMC (ShinEtsu, Nhật), nước, nấm
men (Saccharomyces cerevisiae-Mauri) ở tỷ lệ cố
định và các enzyme amylase (enzyme α, β, γ-amylase
-Novozymes, Đan Mạch) thay đổi ở các tỷ lệ trong
công đoạn phối trộn. Sau khi phối trộn 30 phút
ở 65oC, khối bột nhão được vô khuôn tạo hình, lên
men trong thời gian 30 phút và nướng bánh ở nhiệt
độ 175oC. Bánh lấy ra khỏi lò, để ổn định trong
1 giờ và tiến hành xác định các chỉ tiêu cần thiết của
thí nghiệm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đo độ cứng của bánh mì bằng phương pháp
AACC 74-09 (AACC, 2000). iết bị sử dụng là máy
CT3 (Brook eld, Mỹ). Mẫu bánh mì được cắt ở dạng
61
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
lát với chiều dày đồng nhất là 25 mm (hoặc hai lát có
chiều dày 12,5 mm). Mẫu được đặt dưới đầu dò hình
trụ đường kính 38,1 mm (TA4). Bánh mì được nén
3 mm với tải trọng cực đại. Độ cứng được xác định
là lực đỉnh (lực nén cực đại) trong chu kỳ nén đầu
tiên. Dữ liệu được xác định bằng phần mềm Texture
Export Exceed. Mỗi mẫu được đo 3 lần.
- Đo thể tích của sản phẩm bằng phương pháp
vật rắn chiếm chỗ AACC 10-05 (AACC, 2010).
- Sản phẩm được đánh giá cảm quan theo
thang điểm mô tả định lượng QDA (Quantitative
Descriptive Analysis). ành lập hội đồng đánh giá
cảm quan gồm 7 thành viên, có am hiểu chuyên môn
về đánh giá chất lượng thực phẩm. Chỉ tiêu cảm
quan của bánh cần xác định là cấu trúc được xây
dựng theo thang điểm từ 1 đến 5 (giá trị cảm quan
từ kém đến tốt).
- Phân tích thống kê theo chương trình
Statgraphics XVI. Sự khác nhau giữa các trung bình
nghiệm thức được so sánh thông qua LSD (Least
Signi cant Di erence) ở mức ý nghĩa ≤ 5%.
2.3. ời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2019 đến
tháng 5/2020 tại phòng thí nghiệm Bộ môn Công
nghệ thực phẩm - Trường Đại học Tiền Giang và
Cần ơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của enzyme α-amylase đến cấu
trúc bánh mì không gluten
Dưới tác dụng của α-amylase, tinh bột chuyển
thành maltotetrose, maltose, glucose và dextrin thấp
phân tử. Trong quá trình lên men, các hợp chất thấp
phân tử tiếp tục được thủy phân tạo thành glucose,
bổ sung cơ chất cho nấm men hoạt động, tạo cấu
trúc đáp ứng yêu cầu công nghệ chế biến và nhu
cầu của người tiêu dùng (Goesaert et al., 2005). í
nghiệm được bố trí với nồng độ enzyme α-amylase
bổ sung lần lượt là 0%, 0,25%, 0,5%, 0,75%, 1%. Kết
quả ảnh hưởng của nồng độ α-amylase đến cấu trúc,
độ cứng và thể tích của bánh được thể hiện ở bảng 1.
Mẫu A1, A2 là mẫu đối chứng và mẫu được bổ
sung 0,25% enzyme α-amylase. Kết quả cho thấy
khối bột nở khá thấp ở giai đoạn ủ bánh, khi nướng
do không có khung gluten nên không thể giữ được
thể tích lúc lên men. Mẫu A2 có cấu trúc khá mềm, lỗ
xốp bánh nhỏ hơn mẫu A1. Trong mẫu A2, enzyme
α-amylase đã thủy phân tinh bột thành maltose
và glucose tạo cơ chất cho nấm men hoạt động.
Tuy nhiên, lượng enzyme bổ sung vào thấp nên
lượng cơ chất tạo ra không đủ đáp ứng được nhu cầu
hoạt động của nấm men. Sau khi nướng bề mặt bánh
co lại, nứt, các lỗ khí không đều và thể tích giảm.
Độ cứng của bánh cao, không được người tiêu dùng
đánh giá tốt.
Bảng 1. Kết quả ảnh hưởng của lượng enzyme
α-amylase đến cấu trúc, độ cứng và thể tích
của sản phẩm
Mẫu
Điểm
đánh giá
cảm quan
về cấu trúc
ể tích (cm3) Độ
cứng
(g/mm)
Sau khi
ủ
Sau khi
nướng
A1 4,02e 274e 241e 468a
A2 4,38c 286d 249c 410c
A3 4,55a 293c 270a 380e
A4 4,42b 300b 259b 373d
A5 4,24d 312a 247d 420b
Ghi chú: Các giá trị trên cùng của một cột có chữ
cái thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê; A1, A2, A3, A4, A5 là lượng
enzyme α-amylase bổ sung lần lượt là 0%, 0,25%, 0,5%,
0,75%, 1% .
Mẫu A3, bổ sung 0,5% α-amylase cho thấy bánh
sau khi nướng bề mặt bánh mềm, khá mịn, ít nứt,
thể tích sau khi nướng cao, lỗ xốp ruột bánh khá
nhỏ, tương đối đồng đều, bề mặt bánh hơi lõm, thể
tích sau khi nướng là 270 cm3, giảm so với quá trình
lên men là 293 cm3. Với lượng enzyme sử dụng là
0,5% tạo ra được lượng đường cần thiết, cùng lượng
đường có sẵn giúp nấm men hoạt động, tạo CO2 đều, làm tăng thể tích, giảm độ cứng (380 g/mm), điểm
đánh giá cảm quan về cấu trúc đạt 4,55.
Đối với mẫu A4, và A5, khi bổ sung 0,75% và
1% α-amylase, cho thấy bề mặt bánh mịn nhưng
phần giữa bánh lõm xuống, độ cứng cao. Do lượng
enzyme sử dụng khá nhiều nên thúc đẩy quá trình
thủy phân diễn ra nhanh, tạo nhiều CO2, khi nướng khí thoát ra ngoài nhanh, tạo nên vết nứt lớn, hình
thành vết lõm trên bề mặt bánh.
Kết quả xác định khi bổ sung enzyme α-amylase
đã thúc đẩy quá trình thủy phân xảy ra nhanh, cung
cấp nhiều cơ chất cho nấm men hoạt động, tạo CO2 làm tăng thể tích, giảm độ cứng của bánh. Tuy nhiên,
nếu lượng CO2 tạo ra nhiều, khí thoát ngoài nhanh, bánh bị nứt, thể tích giảm. Như vậy, lượng enzyme
α-amylase bổ sung ở nồng độ 0,5% là hiệu quả trong
việc cải thiện cấu trúc của bánh. Sự hiện diện của
62
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
enzyme α-amylase trong bột nhào làm mềm bánh,
tăng thể tích được khẳng định bởi nhiều tác giả.
Lagrain và cộng tác viên (2008) đã xác định thể tích
riêng của bánh tăng 30% so với bánh không sử dụng
enzyme. Số lượng các lỗ khí tăng 25% so với mẫu đối
chứng. Patel và cộng tác viên (2012) báo cáo rằng
việc kết hợp α-amylase ở liều lượng thích hợp đã cải
thiện quá trình xử lý bột, bánh có chất lượng tốt.
α - amylase thường được sử dụng để cải thiện cấu trúc
và giảm độ dính của bánh mì (Barrera et al., 2015).
3.2. Ảnh hưởng của enzyme β-amylase đến cấu
trúc bánh mì không gluten
β-amylase (EC 3.2.1.2) là exoamylase sử dụng
cơ chế đảo ngược để tách các liên kết α-glycozid ở
đầu không khử của amyloz và amylopectin, tạo ra
maltose, dextrin có trọng lượng phân tử thấp, ở dạng
β-anomeric (Synowiecki, 2007). Kết quả thí nghiệm
ảnh hưởng của lượng enzyme β-amylase bổ sung
vào trong quá trình phối trộn lần lượt là 0%, 0,05%,
0,1%, 0,15%, 0,2% được thể hiện ở hình 1.
Hình 1. Ảnh hưởng của lượng enzyme β-amylase bổ sung
đến cấu trúc, thể tích và độ cứng của sản phẩm
Ghi chú: Điểm đánh giá cảm quan về cấu trúc được
quy theo tỷ lệ % của thang điểm 5. B1, B2, B3, B4, B5 là lượng enzyme β-amylase bổ sung lần lượt là 0%, 0,05%,
0,1%, 0,15%, 0,2%.
Tương tự như kết quả sử dụng enzyme α-amylase,
khi bổ sung enzyme β-amylase ở liều lượng rất thấp
(0,05%) hay rất cao (0,15%, 0,2%) cho thấy bề mặt
bánh hơi lõm, kém mịn, ruột bánh bên trong mềm
hoặc dai, thể tích sau nướng thấp. Chính vì thế, điểm
đánh giá cảm quan của các mẫu này thấp. Riêng mẫu
B3, bổ sung 0,1% enzyme β-amylase, kết quả khẳng
định bánh sau khi nướng nở tốt, bề mặt bánh mịn,
nứt rất ít, thể tích bánh sau khi nướng đạt 278 cm3
giảm nhẹ so với sau quá trình lên men là 289 cm3.
Cấu trúc ruột bánh mềm, lỗ xốp bánh nhỏ, độ cứng
thấp 370 g/mm. Giá trị cảm quan đánh giá về cấu trúc
đạt cao 4,6/5. Như vậy, sử dụng enzyme β-amylase
hỗ trợ tăng thể tích, cấu trúc và giảm độ cứng của
sản phẩm bánh mì không gluten. Aoki (2018) xác
định rằng sử dụng enzyme β-amylase 30 U giảm độ
cứng từ 5N còn 3N (Miao, et al., 2015) chứng minh
β-amylase đã cải thiện bề mặt sản phẩm làm từ tinh
bột. Ngoài bánh mì, β-amylase còn hiệu quả trong
việc ngăn ngừa thoái hóa, kéo dài thời gian bảo quản
của bánh gạo (Dang et al., 2015).
3.3. Ảnh hưởng của enzyme γ-amylase đến cấu
trúc của bánh mì không gluten
Gama-amylase có khả năng thuỷ phân các liên
kết α-1,4 lẫn α-1,6-glucoside. Khi thuỷ phân liên
kết α-l,4-glucoside trong chuỗi polysaccharide,
γ-amylase tách lần lượt từng phân tử glucose ra khỏi
đầu không khử của mạch tạo cơ chất cho quá trình
lên men (Nguyễn Đức Lượng và ctv., 2004). Kết quả
ảnh hưởng của lượng enzyme γ-amylase đến thể tích
và độ cứng của các mẫu khảo sát được thể hiện qua
bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của enzyme γ-amylase
đến điểm đánh giá cảm quan về cấu trúc, thể tích
và độ cứng của sản phẩm
Mẫu
Điểm
đánh giá
cảm quan
về cấu trúc
ể tích (cm3) Độ
cứng
(g/mm)
Sau khi
ủ
Sau khi
nướng
C1 4,02e 275e 240d 472
C2 4,23c 283d 244c 430
C3 4,47a 295c 266a 400
C4 4,30b 305b 256b 415
C5 4,13d 310a 246c 450
F ** ** ** **
CV (%) 8,5 4,5 6,7 6,2
Ghi chú: Các giá trị trên cùng của một cột có chữ
cái thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê; (**): thể hiện sự khác biệt ý
nghĩa ở mức 1%. C1, C2, C3, C4, C5: lượng enzyme
γ-amylase bổ sung lần lượt là 0%, 0,05%, 0,1%,
0,15%, 0,2% .
Kết quả bảng 2 cho thấy lượng enzyme γ-amylase
bổ sung đã cải thiện độ cứng, thể tích và giá trị cảm
quan về cấu trúc của sản phẩm. Lượng enzyme bổ
sung càng cao thì thể tích bánh sau quá trình lên
men càng tăng, khí CO2 thoát ra nhanh trong quá trình nướng, nên thể tích bánh giảm, ruột bánh dai.
Đối với mẫu C3, lượng enzyme bổ sung là 0,1%,
63
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
cho thấy sau khi nướng bánh nở tốt đạt thể tích là
266 cm3, cấu trúc bánh mềm, lỗ xốp ruột bánh đều
hơn mẫu C2. Lượng enzyme được bổ sung thích hợp
nên thể tích của mẫu C3 đạt giá trị cao và cấu trúc
ổn định, độ cứng thấp 400 g/mm. Giá trị cảm quan
trung bình về cấu trúc đạt 4,47. Kết quả khẳng định
lượng enzyme γ-amylase thích hợp trong sản xuất
bánh mì là 0,1%. Trong sản xuất bánh mì và bánh
ngọt ở Đan Mạch, γ-amylase được sử dụng để tăng
cường quá trình lên men (Diler et al., 2015).
Qua kết quả các thí nghiệm cho thấy việc bổ
sung enzyme amylase trong quá trình nhào trộn
giúp cải thiện rõ cấu trúc, thể tích và độ cứng sản
phẩm. Nguyên nhân là các enzyme này đã cải
thiện tính chất giữ khí của bột lên men và giảm
độ nhớt của bột trong quá trình hồ hóa (Goesaert
et al., 2005). Enzyme α-amylase phân hủy tinh bột
thành các dextrin trọng lượng phân tử thấp, trong
khi β-amylase chuyển hóa thành maltose (Goesaert
et al., 2005). Sự hiện diện của đường giúp hình
thành phản ứng Maillard, tăng cường hương, vị và
màu vỏ bánh mì. Mỗi loại enzyme bổ sung trong
quá trình thực hiện tạo ra lượng đường khác nhau
nên sản phẩm hình thành có thể tích, cấu trúc và
độ cứng cũng khác nhau. Khi thể tích bánh sau khi
ủ càng cao thì khi nướng khí thoát ra càng nhanh,
bánh càng bị xẹp, độ cứng càng tăng. Kết quả của
thí nghiệm cho thấy mẫu bổ sung enzyme β-amylase
có thể tích bánh đạt được cao nhất 278 cm3 cao hơn
mẫu bổ sung enzyme α-amylase 270 cm3 và enzyme
γ-amylase là 266 cm3. Từ số liệu thu được của các
thí nghiệm trên nhận thấy bổ sung 0,1% enzyme
β-amylase vào quá trình nhào trộn đạt được kết quả
tốt hơn hai loại enzyme còn lại.
3.4. Đánh giá chất lượng sản phẩm
Kết thúc các thí nghiệm nghiên cứu cho thấy khi
bổ sung enzyme vào quy trình sản xuất tạo ra được
sản phẩm bánh mì không gluten đạt hiệu quả về các
thông số vật lý. ành phần hóa học của sản phẩm
được kiểm tra thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. ành phần hóa học
trong sản phẩm bánh mì không gluten
ành phần Đơn vị tính Hàm lượng
Chất béo % 6,4
Carbohydrate % 50,1
Đường tổng % 10,1
Protein % 9,2
Nước % 30,2
Kết quả phân tích chỉ tiêu hóa học cho thấy bánh
mì không gluten có độ ẩm cao, sản phẩm có mùi
thơm đặc trưng của bánh nướng, bơ, sữa, vị ngọt hài
hòa, thích hợp cho mọi lứa tuổi, Sản phẩm có hàm
lượng tinh bột, protein và chất béo khá cao nên cung
cấp nhiều calo cho cơ thể.
Sản phẩm được đánh giá cảm quan các chỉ tiêu
về màu sắc, mùi, vị, cấu trúc. Kết quả được thể hiện
ở bảng 4.
Bảng 4. Đánh giá cảm quan chất lượng sản phẩm
theo TCVN 3125-79
Chỉ tiêu Điểm trung bình
Hệ số
quan trọng
Điểm có
trọng số
Màu sắc 4,4 1,2 5,3
Mùi 4,3 0,8 3,4
Vị 4 0,8 3,2
Cấu trúc 4,5 1,2 5,4
Tổng điểm 17,3
Qua kết quả đánh giá cảm quan chất lượng sản
phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3125-79 cho
thấy điểm trung bình có trọng số của sản phẩm lớn
hơn 16 nên “Bánh mì gạo không gluten” đạt được
chất lượng loại khá nên có thể sản xuất thử nghiệm
trên thị trường như các loại bánh mì khác.
IV. KẾT LUẬN
ực hiện xử lý khối bột nhào bằng enzyme
amylase ở 65oC trong 30 phút với các nồng độ khác
nhau cho thấy sản phẩm bánh mì không gluten có
cấu trúc cao hơn so với mẫu đối chứng. Trong đó,
enzyme β-amylase tạo ra lượng đường khử thích
hợp trong quá trình thủy phân nên giữ được thể tích,
bánh mềm và cấu trúc của sản phẩm tốt. Sản phẩm
được mọi người đánh giá đạt loại khá. Với những kết
quả tối ưu của enzyme β-amylase mang lại, enzyme
này cần được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất bánh
mì không gluten.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đức Lượng, Cao Cường, Huỳnh Ngọc Oanh,
Nguyễn ủy Hương, Phan ụy Huyền, 2004.
Công nghệ enzyme. Đại học Quốc gia HCM: 534pp.
AACC, 2000. Approved Methods of the AACC, Methods
44-15.02, 10th ed. American Association of Cereal
Chemists. St Paul, MN, USA.
AACC, 2010. Approved Methods of the AACC, Methods
46-12.01.56-11. American Association of Cereal
Chemists. St. Paul, MN, USD.
64
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 04(125)/2021
Almeida, R.L.J., Dos, S.P.T., Santiago, A.M., Oliveira,
H.M.L., De Sousa, C.L., De Gusmao, R.P., 2019.
In uence of enzymatic hydrolysis on the properties of
red rice starch. Int. J. Biol. Macromol., 141: 1210-1219.
Aoki, N., 2018. Sweet potato our decreases rmness of
gluten-free rice bread. Food Science and Technology
Research, 24(1): 105-110.
Barrera, G.N., Leo´n, A.E., Ribotta, P.D., 2015. Use
of enzymes to minimize the rheological dough
problems caused by high levels of damaged starch in
starch-gluten systems. J. Sci. Food Agric., 96: 2539-2546.
Dang, Nguyen D.H., Tran P.L., Ha, H.S., Lee, J.S.,
Hong, W.S., Le, Q.T., Oh, B.C., Park, S.H., 2015.
Presence of b-amylase in ramie leaf and its antistaling
e ect on rice cake. Food Sci. Biotechnol., 24: 37-40.
Dange, V.U., Sakhale, B.K. and Giri, N.A., 2018.
Enzyme Application for Reduction of Acrylamide
Formation in Fried Potato Chips. Curr. Res, Nutr.
Food Sci. Jour., 6(1): 222-226.
Diler, G., Chevallier, S., Pohlmann, I., Guyon, C,
Le-Bail, A., 2015. Assessment of amyloglucosidase
activity during production and storage of laminated
pie dough: Impact on raw dough properties and
sweetness a er baking. J. Cereal Sci., 61: 63-70.
Ferreira, S., Araujo, T., Souza, N., Rodrigues, L.,
Lisboa, M., Rocha, A.P., 2019. Physicochemical,
morphological and antioxidant properties of spray-
dried mango Kernel starch. J. Agric. Food Res., 25:
1-9.
Gallagher, E., T. Gormley, E. Arendt, 2003. Crust and
crumb characteristics of gluten free breads. Food
Engineering, 56(2-3): 153-161.
Goesaert, H., Brijs, K., Veraverbeke, W.S., Courtin,
C.M., Gebruers, K., Delcour, J.A., 2005. Wheat
our constituents: how they impact bread quality,
and how to impact their functionality. Trends in
Food Science and Technology, 16(1-3): 12-30.
Gujral, H.S. and C.M. Rosell, 2004. Functionality of
rice our modi ed by microbial transglutaminase. J.
Cereal Sci., 39: 225-230.
Hug-Iten, S., Escher, F., Conde-Petit, B., 2003. Staling
of bread: Role of amylose and amylopectin and
in uence of starch-degrading enzymes. Cereal
Chemistry, 80(6): 654-661.
Lagrain, B., Leman, P., Goesaert, H., and Delcour,
J.A., 2008. Impact of thermostable amylases during
bread making on wheat bread crumb structure and
texture. Food Research International, 41(8): 819-827.
Ludvigsson, J.F., Leffler D.A., Bai, J.C, Biagi, F.,
Fasano, A., Green, P.H., Hadjivassiliou, M.,
Kaukinen, K., Kelly, C.P. and Leonard, J.N., 2014.
e Oslo de nitions for celiac disease and related
terms. Gut, 62: 43-52.
Miao, M., Li, R., Huang, C., Zhang, T., 2015. Impact
of b-amylase degradation on properties of sugary
maize soluble starch particles. Food Chem., 177: 1-7.
Patel, M.J., Ng J.H.Y., Hawkins W.E., Pitts K.F.,
Chakrabarti-Bell S., 2012. E ects of fungal
α-amylase on chemically leavened wheat our
doughs. J. Cereal Sci., 56: 644-651.
Synowiecki J., 2007. e use of starch processing
enzymes in the food industry. In: Polaina J., MacCabe
A.P. (eds.) Industrial Enzymes: Structure, function
and applications. Dordrecht. Springer: 19-34.