Based on the analysis of the role of the diagram, the article proposes some measures to
use and promote the role of diagram in teaching the module “Revolutionary guidelines of
Vietnamese Communist Party” at Hai Duong Medical Technical University. The results of
pedagogical experiments have shown the success and effectiveness of the method in teaching this
module at the university.
5 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng sơ đồ trong dạy học môn Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam ở Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 432 (Kì 2 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3
61
Email: duongvankhoagdct@gmail.com
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC MÔN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC KĨ THUẬT Y TẾ HẢI DƯƠNG HIỆN NAY
Dương Văn Khoa - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Vi Văn Thảo - Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương
Ngày nhận bài: 15/03/2018; ngày sửa chữa: 20/03/2018; ngày duyệt đăng: 27/04/2018.
Abstract: Based on the analysis of the role of the diagram, the article proposes some measures to
use and promote the role of diagram in teaching the module “Revolutionary guidelines of
Vietnamese Communist Party” at Hai Duong Medical Technical University. The results of
pedagogical experiments have shown the success and effectiveness of the method in teaching this
module at the university.
Keywords: Diagram, Revolutionary guidelines of Vietnamese Communist Party, teaching
methods, group discussions.
1. Mở đầu
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
là môn khoa học cung cấp tri thức lí luận chính trị, xã hội,
hình thành niềm tin, lí tưởng cách mạng cho người học;
đồng thời, nâng cao trách nhiệm của người công dân đối
với dân tộc, đất nước. Đây là môn học có khối lượng kiến
thức lớn, vừa cụ thể, vừa có tính khái quát, trừu tượng
cao, sinh viên (SV) gặp không ít khó khăn trong quá trình
học tập. Vì vậy, sử dụng sơ đồ (SĐ) trong dạy học môn
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở
các trường cao đẳng, đại học nói chung, Trường Đại học
Kĩ thuật Y tế Hải Dương nói riêng là cần thiết, bởi SĐ có
thể “mã hoá”, chuyển thể hệ thống kiến thức trừu tượng,
rời rạc, khó hiểu về dạng đơn giản, logic, dễ hiểu.
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lí
thuyết và ứng dụng SĐ vào dạy học (chủ yếu ở các môn
Toán, Vật lí, Hóa học, Địa lí, Sinh học). Tuy nhiên, chưa
có một chuyên luận nào nghiên cứu vấn đề “Sử dụng SĐ
trong dạy học môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam ở Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải
Dương”. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên
cứu, bài viết đi sâu nghiên cứu vai trò, biện pháp và tiến
hành thực nghiệm sư phạm qua dạy học bộ môn ở
Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương hiện nay để
làm rõ tính hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất; đồng
thời, khẳng định thêm ý nghĩa, vai trò của phương pháp
SĐ trong dạy học bộ môn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vai trò của sơ đồ trong dạy học môn Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1.1. Giúp giảng viên thuận lợi trong công tác chuẩn bị bài
lên lớp, định hướng xây dựng cấu trúc bài giảng hợp lí
Việc cấu trúc nội dung bài học môn Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng SĐ thông qua
các ngôn ngữ, kí hiệu, số liệu làm cho kiến thức trở nên
khái quát, ngắn gọn, súc tích, hệ thống hóa và đơn giản
hóa, qua đó người học có thể dễ dàng tiếp nhận tri thức
và ghi nhớ kiến thức lâu dài.
2.1.2. Giúp giảng viên thực hiện có hiệu quả bài giảng
trên lớp
Khi dạy học bài mới, giảng viên (GV) có thể sử dụng
SĐ, kết hợp với các phương pháp dạy học khác nhau, giúp
người học tiếp nhận tri thức một cách nhẹ nhàng và hiệu
quả. Để quá trình dạy học thành công, trước mỗi tiết học,
GV có thể yêu cầu SV nghiên cứu, chuẩn bị trước ở nhà
theo sự hướng dẫn bằng hệ thống các câu hỏi hay xây dựng
kiến thức theo SĐ phù hợp với nội dung bài học.
2.1.3. Giúp sinh viên rèn luyện được các năng lực tư duy,
quan sát, tái hiện và lĩnh hội kiến thức hiệu quả hơn
Năng lực tư duy, quan sát, tái hiện, lĩnh hội kiến thức
của SV được hình thành và phát triển thông qua các thao
tác hệ thống kiến thức, lập SĐ, quan sát, phân tích SĐ
thường xuyên, liên tục. Muốn hiểu được nội dung kiến
thức qua các SĐ, SV phải khai thác thông tin từ các
“đỉnh” SĐ; đồng thời, tổng hợp kiến thức và mối liên hệ
giữa các kiến thức đó. Khi SV đã nắm được các “đỉnh”
của SĐ là lúc lĩnh hội được những tri thức cơ bản nhất
của nội dung bài học.
2.1.4. Giúp sinh viên thuận lợi trong quá trình tự học, lựa
chọn tài liệu học tập bộ môn
SĐ vừa mang tính khái quát, vừa mang tính trực quan
được thể hiện qua hình ảnh, số liệu,... có khả năng biến
những kiến thức trừu tượng thành đơn giản, giúp SV lĩnh
hội kiến thức dễ dàng, kích thích tư duy sáng tạo thông
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 432 (Kì 2 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3
62
qua việc tiếp thu tri thức và tái hiện tri thức một cách bền
vững. Thông qua hình ảnh trực quan, SV có cái nhìn tổng
thể về mối liên hệ giữa các đơn vị kiến thức nhằm củng
cố kiến thức cũ và nghiên cứu kiến thức mới thuận lợi
hơn; phát hiện ra các bộ phận riêng biệt của nội dung bài
học; rèn kĩ năng nghiên cứu giáo trình, tài liệu, lựa chọn
kiến thức; phát triển được tính tư duy thông qua phân
tích, khai thác để nhận thức được các yếu tố cấu thành,
các mối quan hệ giữa chúng.
2.2. Biện pháp sử dụng sơ đồ trong dạy học môn
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở
Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương
2.2.1. Sử dụng sơ đồ trong thiết kế bài giảng
GV cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung cơ bản của bài
học, đặc điểm đối tượng học, điều kiện về cơ sở vật chất,
trang thiết bị Về cơ bản, việc sử dụng SĐ trong thiết
kế bài giảng có thể thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học. Việc xác định
được mục tiêu bài học là công việc quan trọng trong việc
đề ra phương pháp dạy học; từ đó, dự kiến hệ thống SĐ
phù hợp để sử dụng trong bài giảng. Có nhiều loại SĐ
khác nhau (SĐ có hướng, vô hướng, SĐ đủ, thiếu, câm,
SĐ nội dung, SĐ hoạt động dạy học). Mỗi loại SĐ đều
có ưu và nhược điểm khác nhau. Vì vậy, khi xác định
mục tiêu bài học, GV cần lựa chọn và phân loại SĐ để
lựa chọn và áp dụng phù hợp với từng nội dung bài giảng.
Bước 2: Thiết kế nội dung dạy học bằng SĐ. GV phải
xác định được nội dung dạy học. Mỗi bài học đều có kiến
thức trọng tâm, kiến thức cơ bản và kiến thức không cơ
bản, đó chính là các “đỉnh” của SĐ. Muốn đạt được mục
tiêu bài học phải xác định được nội dung kiến thức để lựa
chọn phương pháp dạy kết hợp sử dụng phương tiện dạy
học nhằm phát huy tính tích cực của SV trong việc chiếm
lĩnh tri thức từ SĐ.
Ví dụ, đối với kiến thức trong Phần I, Chương I
“Hoàn cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam”
[1], chúng ta cần xác định các kiến thức sau: - Kiến
thức trọng tâm chính là “đỉnh xuất phát” của SĐ: Hoàn
cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam; - Kiến thức cơ
bản là “đỉnh chính” SĐ (có tác dụng làm rõ “đỉnh xuất
phát”), đó là: Hoàn cảnh quốc tế, hoàn cảnh trong
nước dẫn tới sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Kiến thức không cơ bản được huy động từ những tài
liệu, kiến thức ngoài giáo trình nhằm khắc sâu, phong
phú thêm kiến thức bài giảng.
Sau khi xác định được nội dung bài học, GV lựa chọn
SĐ phù hợp nhất để thiết kế bài giảng, trong đó thể hiện
rõ mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức (xem SĐ 1).
Việc thiết kế nội dung bài giảng bằng SĐ làm cho
kiến thức được khái quát, đơn giản hóa và quan hệ logic
với nhau, giúp SV hiểu được tiến trình phát triển của
bài học; sử dụng, khai thác kiến thức từ SĐ dễ dàng, dễ
nhớ và nhớ lâu; có kĩ năng lập, phân tích SĐ và làm
việc khoa học.
2.2.2. Sử dụng sơ đồ trong thực hiện bài giảng trên lớp
Sơ đồ 1. Hoàn cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 432 (Kì 2 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3
63
- Sử dụng SĐ để cung cấp kiến thức mới. Có nhiều
phương pháp giúp SV tiếp cận và nắm được tri thức mới
của bài giảng, sử dụng SĐ dạy học có những lợi thế riêng
trong việc thực hiện nhiệm vụ này và có thể tiến hành
theo các bước sau:
Bước 1: GV trình chiếu SĐ, giải thích mục đích và
nêu câu hỏi cho SV làm việc để làm rõ các đơn vị kiến
thức theo logic bài học trong SĐ.
Bước 2: SV nghiên cứu tài liệu và trả lời câu hỏi do
GV đưa ra để thấy được mối liên hệ giữa các “đỉnh” SĐ.
Bước 3: Yêu cầu SV phân tích SĐ và GV kết luận
nội dung theo SĐ.
- Sử dụng SĐ kết hợp với các phương pháp dạy học khác:
+ Sử dụng SĐ kết hợp với phương pháp thuyết trình.
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là
môn học có khối lượng kiến thức lớn, tương đối trừu
tượng, nên việc sử dụng SĐ để khái quát hóa, đơn giản
hóa kiến thức kết hợp với phương pháp thuyết trình để
giảng giải, phân tích cho SV hiểu được từng nội dung của
các đơn vị kiến thức là cần thiết. Ví dụ, với SĐ 1, GV có
thể sử dụng máy chiếu, hoặc vẽ lên bảng, sau đó thuyết
trình tuần tự theo logic của hệ thống kiến trong SĐ.
+ Sử dụng SĐ kết hợp với phương pháp thảo luận
nhóm. Việc kết hợp với phương pháp thảo luận nhóm sẽ
có tác dụng phát huy tính tích cực của SV, chia sẻ kinh
nghiệm, tăng cường mối quan hệ giữa các SV và GV để
giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung bài học. Kết
hợp SĐ với phương pháp thảo luận nhóm bao gồm các
bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị nội dung thảo luận.
Bước 2: GV giao chủ đề cho các nhóm thảo luận.
Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận.
Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả và GV tổng kết.
Kết thúc phần thảo luận nhóm, GV có thể củng cố lại
kiến thức cho SV bằng cách truyền đạt hợp lí, mức độ
kiến thức SV cần đạt được nhằm mang lại hiệu quả cao
cho bài học.
Ví dụ, khi dạy nội dung 2, Phần I, Chương VII: “Quá
trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát
triển nền văn hóa trong thời kì đổi mới” [1], GV chiếu
SĐ lên bảng SĐ 2, sau đó nêu lên vấn đề thảo luận và
tuần tự thực hiện các bước nêu trên. Vấn đề thảo luận
gồm: Phân tích quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xây
dựng và phát triển nền văn hóa?; Phân tích quan điểm chỉ
đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn hóa
theo SĐ? Đánh giá việc thực hiện đường lối xây dựng và
phát triển văn hóa qua 30 năm đổi mới (xem SĐ 2)?
+ Kết hợp SĐ với phương pháp nêu vấn đề. Phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một phương pháp dạy học
tích cực; trong đó, GV nêu ra một vấn đề có liên quan
đến nội dung bài học, yêu cầu SV phải giải quyết, đặc
biệt là những vấn đề tạo ra được mâu thuẫn, xung đột về
mặt kiến thức cho người học (mâu thuẫn giữa mong
muốn giải quyết được vấn đề với sự hạn chế trong nhận
thức của SV). Việc kết hợp với phương pháp nêu vấn đề
giúp SV phát huy được hết khả năng của mình từ vốn
kiến thức đến kĩ năng vận dụng, tìm tòi, khai thác kiến
thức. Qua đó, phát huy được tính chủ động, xem xét, sáng
tạo, năng lực của SV và tự học, tự nghiên cứu. Ví dụ, GV
Sơ đồ 2. Đường lối xây dựng, phát triển văn hóa trong thời kì đổi mới
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 432 (Kì 2 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3
64
chiếu SĐ 1 lên bảng, sau đó giới thiệu, phân tích SĐ và
nêu vấn đề: Tại sao chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa (cuối thế kỉ XIX), Việt Nam tất
yếu sẽ bị xâm lược và sau đó bị thực dân Pháp thống trị?
- Sử dụng SĐ để ôn tập, củng cố bài học. Ôn tập là một
hoạt động quan trọng trong quy trình dạy học nhằm hệ thống,
củng cố kiến thức cơ bản của các bài đã học trước đó. Việc
thiết lập SĐ rộng hay hẹp là phụ thuộc vào khối lượng kiến
thức ôn tập. Nhiệm vụ chính của bài ôn tập là tóm tắt, khái
quát, nhấn mạnh, khắc sâu hệ kiến thức cơ bản mà SV đã học.
Ví dụ, sau khi dạy xong Chương II, GV tổ chức ôn tập,
củng cố về “Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930-
1945)” và đưa ra hệ thống câu hỏi: + Đường lối đấu tranh
giành chính quyền (1930-1945) có thể chia ra thành mấy
giai đoạn?; + Phân tích đường lối đấu tranh giành chính
quyền qua các giai đoạn? (xem SĐ 3):
- Sử dụng SĐ để kiểm tra, đánh giá. Kiểm tra, đánh giá
bằng SĐ có thể tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Xác định nội dung kiểm tra, đánh giá. Đầu tiên,
phải xác định mục đích của việc kiểm tra, đánh giá; sau đó
xác định nội dung nhằm đáp ứng được mục đích đó. Việc
lựa chọn nội dung kiểm tra, đánh giá phải đáp ứng được các
điều kiện để lập SĐ, phát huy được tư duy sáng tạo của
người học.
Bước 2: Lựa chọn các loại SĐ phù hợp để kiểm tra,
đánh giá: + Dùng “SĐ câm”: Đây là SĐ được đưa ra để
kiểm tra với tất cả các “đỉnh” đều rỗng (trừ “đỉnh xuất
phát”). Việc lựa chọn “SĐ câm” để kiểm tra, đánh giá
không những phát huy được tính tích cực của SV, mà còn
rèn được các kĩ năng nghiên cứu tài liệu, kĩ năng phân tích,
khai thác tài liệu, tổng hợp kiến thức; + “SĐ khuyết”: Là
SĐ đúng nhưng chưa đầy đủ nội dung kiến thức ở các
“đỉnh”, yêu cầu SV phải hoàn thiện; + SĐ sai: GV đưa ra
các SĐ với nội dung kiến thức ở các “đỉnh” sai, yêu cầu SV
phải tìm hiểu kiến thức trong giáo trình, kiểm tra lại và hoàn
thiện cho đúng với nội dung kiến thức. Với loại SĐ này,
không những yêu cầu SV về kĩ năng phát hiện vấn đề, xử lí,
hoàn thiện vấn đề mà còn phát huy khả năng tập trung, tích
cực của SV; + Yêu cầu SV tự lập SĐ: Dưới sự dẫn dắt của
GV bằng hệ thống các câu hỏi và gợi ý các mục trong nội
dung bài học, SV tự thiết kế SĐ để hoàn thiện nội dung kiến
thức thông qua các “đỉnh” trong SĐ.
Bước 3: Tiến hành lập SĐ. GV hướng dẫn SV lập SĐ
theo trình tự và kế hoạch đã xác định.
2.3. Thực nghiệm sử dụng phương pháp sử dụng sơ đồ
dạy học môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam ở Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương
Trước khi tiến hành dạy thực nghiệm 50 SV của Trường
(năm học 2016-2017), chúng tôi tiến hành kiểm tra nhận
thức của SV. Kết quả cụ thể như sau: Giỏi có 12 SV
(24,0%); Khá 20 SV (40,0%); Trung bình 14 SV (28,0%);
Yếu 4 SV (8,0%). Sau đó chúng tôi triển khai dạy thực
Sơ đồ 3. Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 432 (Kì 2 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3
65
nghiệm nội dung Chương VII: “Quá trình nhận thức và nội
dung đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa” [1]. Kết
quả kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm thể hiện như sau:
Giỏi có 35 SV (70,0%); khá 8 SV (16,0%); trung bình 7 SV
(14,0%), không có SV yếu. Như vậy, kết quả đã có sự thay
đổi ở cùng một đối tượng giữa hai thời điểm trước và sau
thực nghiệm sư phạm. Số lượng SV giỏi tăng lên 23, SV
khá giảm 12, SV trung bình giảm 7 và không có SV yếu.
Để khẳng định thêm độ chính xác kết quả thực nghiệm
sư phạm, chúng tôi đã lấy ý kiến đánh giá của 10 GV bộ
môn Lí luận chính trị Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải
Dương (các GV có tham gia dự giờ thực nghiệm). Kết quả
cho thấy: 100% đều khẳng định sử dụng SĐ trong dạy môn
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là rất
cần thiết; đồng thời, phương pháp này có thể áp dụng trong
phần lớn nội dung chương trình; SĐ tạo thuận lợi hơn cho
cả GV và SV, giúp GV giảng dạy những phần, nội dung
khó, mang tính chất khái quát, tính trừu tượng cao, SV lĩnh
hội tri thức dễ dàng và hứng thú; 70,0% SV cho rằng
phương pháp này đạt hiệu quả nếu kết hợp với các phương
pháp khác, đặc biệt là phương pháp nêu vấn đề.
3. Kết luận
Để sử dụng hiệu quả SĐ trong dạy học, GV cần đầu tư
thời gian xây dựng SĐ, nghiên cứu tình huống, tiến trình,
lựa chọn phương pháp sử dụng SĐ. Tuy nhiên, không nên
coi đây là phương pháp duy nhất mà cần kết hợp với các
phương pháp dạy học khác và các phương tiện dạy học hợp
lí nhằm phát huy triệt để tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của SV, giúp SV dễ dàng trong việc tiếp thu tri thức và khai
thác kiến thức từ SĐ.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2016). Giáo trình Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[2] Nguyễn Văn Cường (2015). Lí luận dạy học hiện đại.
NXB Đại học Sư phạm.
[3] Võ Văn Dũng - Đỗ Thị Thùy Trang (2015). Thực trạng
dạy và học các môn Lí luận chính trị trong các trường
cao đẳng hiện nay. Kỉ yếu hội thảo khoa học, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, tr 52-57.
[4] Nguyễn Phúc Chỉnh (2005). Phương pháp Graph
trong dạy học sinh học. NXB Giáo dục.
[5] Ninh Thị Bạch Diệp (2016). Một số loại sơ đồ hệ thống
hóa kiến thức trong dạy học sinh học. Tạp chí Khoa
học, Trường Đại học Tân Trào, số 2, tr 46-54.
[6] Phạm Minh Tâm (1997). Tác dụng của việc sơ đồ hoá
tri thức Địa lí bài lên lớp trong dạy học Địa lí ở trung
học phổ thông. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 4, tr
14-15.
[7] Nguyễn Hữu Vui (2005). Đổi mới phương pháp giảng
dạy các môn khoa học Mác-Lênin ở Việt Nam - Những
vấn đề chung. NXB Đại học Sư phạm.
[8] Tony Buzan (2007). Lập bản đồ tư duy - Công cụ tư duy
tối ưu sẽ làm thay đổi cuộc sống của bạn (Nguyễn Thế
Anh dịch). NXB Lao động - Xã hội.
[9] Trần Đăng Sinh (2008). Dạy và học Triết học Mác -
Lênin ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tạp chí
Triết học, số 2, tr 19-25.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP...
(Tiếp theo trang 30)
Cần tập trung đổi mới cơ chế tài trợ nghiên cứu cho
CSGDĐH để thúc đẩy giảng viên nâng cao năng lực,
chất lượng và hiệu quả NCKH. Công khai, minh bạch
các công trình đã công bố, các hướng nghiên cứu đang
thực hiện của giảng viên trên trang thông tin điện tử của
cơ sở GDĐH. Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở để đề xuất
xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai
phân tầng, xếp hạng các trường ĐH, quy hoạch mạng
lưới các cơ sở GDĐH và đào tạo giảng viên để đầu tư
phát triển tiềm lực KH-CN trong các cơ sở GDĐH.
Tài liệu tham khảo
[1] Chính phủ (2014). Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày
25/10/2014, Nghị định quy định việc đầu tư phát triển
tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công
nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.
[2] Nguyễn Khắc Thông (2017). Một số kinh nghiệm
Quốc tế về đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công
nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Tạp chí Giáo
dục, số 409, tr 61-63.
[3] Bộ GD-ĐT (2017). Số liệu báo cáo thống kê của Vụ
Khoa học Công nghệ và Môi trường 02/2017.
[4] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-
NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[5] Kết quả nghiên cứu nhiệm vụ B2015-37-43NV, số liệu
khảo sát tại các cơ sở giáo dục đại học.
[6] Cheng, Ming Yu. (2009). University technology
transfer and commercialization: the case of
Multimedia University, Malaysia. Chapter 11 in
Wong, P.K., Y.P. Ho and A. Singh (eds), University
Technology Commercialization and Academic
Entrepreneurship in Asia (forthcoming).
[7] Olds, Kris. (2007). Global Assemblage: Singapore,
Foreign Universities, and the Construction of a Global
Education Hub. World Development Vol. 35 No. 6.