Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được đề cập rất lâu trong trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý. Tài sản trên thực tế tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, mỗi loại tài sản lại có những đặc tính khác biệt cần thiết phải có quy chế pháp lí điều chỉnh riêng. Chính vì vậy, việc phân loại tài sản là cần thiết không chỉ có ý nghĩa trong hoạt động lập pháp mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ khác nhau, một sự vật được nhìn nhận và đánh giá một cách khác nhau. Bởi vậy, ở mỗi tiêu chí khác nhau, tài sản cũng sẽ được phân thành các loại cụ thể khác nhau. Do đó, Điều 163_BLDS năm 2005 quy định:“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Đây là cách phân loại cũng đồng thời là cách định nghĩa về tài sản của Bộ luật. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Bài viết dưới đây nhằm phân tích những loại tài sản đã được đề cập và một số vấn đề lí luận và thực tiễn về tài sản theo quy định tại điều 163_BLDS năm 2005 để góp phần hoàn thiện hơn nữa về cách hiểu tài sản trong luật dân sự Việt Nam.
21 trang |
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 2497 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự hình thành và phát triển của Tài sản và pháp luật về tài sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được đề cập rất lâu trong trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý. Tài sản trên thực tế tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, mỗi loại tài sản lại có những đặc tính khác biệt cần thiết phải có quy chế pháp lí điều chỉnh riêng. Chính vì vậy, việc phân loại tài sản là cần thiết không chỉ có ý nghĩa trong hoạt động lập pháp mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ khác nhau, một sự vật được nhìn nhận và đánh giá một cách khác nhau. Bởi vậy, ở mỗi tiêu chí khác nhau, tài sản cũng sẽ được phân thành các loại cụ thể khác nhau. Do đó, Điều 163_BLDS năm 2005 quy định:“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Đây là cách phân loại cũng đồng thời là cách định nghĩa về tài sản của Bộ luật. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Bài viết dưới đây nhằm phân tích những loại tài sản đã được đề cập và một số vấn đề lí luận và thực tiễn về tài sản theo quy định tại điều 163_BLDS năm 2005 để góp phần hoàn thiện hơn nữa về cách hiểu tài sản trong luật dân sự Việt Nam.
NỘI DUNG
Một số vấn đề lý luận về tài sản
Khái quát về sự hình thành và phát triển của Tài sản và pháp luật về tài sản
Tài sản là công cụ của đời sống xã hội. Từ hàng nghìn năm nay, pháp luật về tài sản của các quốc gia đã hình thành dựa trên các tập quán, lối suy nghĩ và hành động khác nhau. Luật tài sản Phương Tây có khởi nguồn từ cổ luật La Mã. Từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỉ XVII, người ta đã tạo ra các quy định và thiết chế mới về tài sản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tư bản, mà vẫn dựa trên tư duy cổ xưa, mang đậm dấu ấn của luật tục. Hiện nay, luật tư được các học giả thừa nhận là một ngành luật cơ bản và Luật dân sự_nền tảng căn bản của luật tư mà ở đó, Nhà nước chỉ đóng vai trò là trọng tài-có liên quan tới con người và quan hệ của con người với nhau liên quan đến tài sản. Trong các hệ thống pháp luật, thông thường người ta mượn khái niệm tài sản và các giải pháp của luật La Mã để giải quyết các mối quan hệ đó. Các nước khác nhau có sự nhìn nhận và quan điểm luật học về tài sản khác nhau. Luật học Việt Nam trên cơ sở vận dụng có chọn lọc những thành tựu của các hệ thống luật tiên tiến và kế thừa có sáng tạo tinh thần luật học cổ điển của nước nhà. Qua các thời kì từ Trong luật cổ và tục lệ cho đến thời cận đại và cuối cũng là thời hiện đại, pháp luật Việt Nam về tài sản đã dần từng bước cải thiện và nâng cao. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tài sản được xác định với tính cách là khách thể của quyền sở hữu và phạm vi này là không hạn chế.
Trong chế định quyền sở hữu thì tài sản giữ một vai trò quan trọng, vừa là đối tượng của quyền sở hữu, vừa là khách thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Tài sản với tư cách là đối tượng của sở hữu được đề cập lần đầu tiên trong các quy định về tài sản và quyền sở hữu của Bộ luật dân sự Việt Nam. Bộ luật dân sự năm 1995 trước đây cũng như Bộ luật dân sự năm 2005 hiện hành dựa vào tiêu chí tài sản là đối tượng của quyền sở hữu phải trị giá được bằng tiền và có thể đưa vào giao lưu dân sự. Theo Điều 172 Bộ luật dân sự 1995, “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Đến Bộ luật dân sự năm 2005 khái niệm tài sản đã được hoàn thiện thêm một bước góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật. Theo Điều 163 BLDS 2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Mặc dù, BLDS 2005 đã quy định cụ thể khái niệm tài sản tuy nhiên trên thực tế xoay quanh vấn đề tài sản vẫn còn nhiều vướng mắc.
Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005
Khái niệm tài sản chắc đã cổ xưa như chính lịch sử loài người và ngày nay, tài sản có thể được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm trong sự chiếm hữu của một chủ thể, một khái niệm rộng và không có giới hạn, luôn được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà con người nhận thức ra. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì tài sản chính là của cải vật chất được sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng có dụng ích, luôn luôn được con người hướng tới làm chủ: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Dưới góc độ pháp lí, tài sản là một chế định quan trọng của của Luật dân sự. Trong bối cảnh hệ thống pháp luật Việt Nam đang có nhiều thay đổi để theo kịp với tiến trình hội nhập quốc tế, các khảo cứu mang tính lí luận về tài sản về cơ bản đã bao quát và tương đối. Bộ luật dân sự năm 1995 tại Điều 172 quy định: “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.”. Có thể thấy rằng quy định này có phần chưa phù hợp với lí luận và thực tiễn về tài sản. Bộ luật dân sự 2005 trên cơ sở kế thừa và phát huy Bộ luật dân sự 1995 cũng đã có sự thay đổi điều chỉnh mới về khái niệm tài sản phù hợp hơn: Điều 163_BLDS năm 2005 quy định :“ Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản.
Các loại tài sản theo quy định tại điều 163 BLDS năm 2005_Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
Như trên đã nêu rõ tài sản theo quy định tại Điều 163_BLDS năm 2005 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Để hiểu rõ hơn nữa về quy định này của pháp luật dân sự em xin lần lượt đi qua các vấn đề về các loại tài sản như sau:
Vật
Vật là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế giới vật chất mà con người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì cũng đồng nghĩa với việc con người không thể tác động được vào nó. Hơn nữa, là đối tượng trong quan hệ pháp luật nên vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đều quy định tài sản gồm có vật. Tuy nhiên, Điều 163_BLDS 2005 quy định tài sản là “vật” mà không quy định là “vật có thực” như quy định tại Điều 172_BLDS 1995. Điều 163 _BLDS 2005 quy định tài sản gồm vật, bỏ quy định vật có thực đã mở rộng nội hàm của khái niệm vật. Vật có thể đang tồn tại hiện thực và vật chắc chắn được hình thành trong tương lai. Như vậy, Quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 về vật phù hợp hơn với đời sống thực tế và các giao lưu dân sự trong cơ chế thị trường hiện nay. Theo đó, các bên chủ thể tham gia giao dịch có thể thỏa thuận về đối tượng của giao dịch là vật được hình thành trong tương lai. Vậy vật là gì ? Và khi nào vật được coi là tài sản? Sự cần thiết phải xác định nhằm làm rõ để có cơ sở khi giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản, có được các căn cứ pháp lí để quyết định đúng đắn, không gây sự nhầm lẫn. Trong thực tế, có nhiều cách hiểu về vật khác nhau:
Với nghĩa vật lí: vật là một bộ phận của thế giới vật chất nhưng không phải mọi vật của thế giới vật chất đều được coi là vật (tài sản) trong quan hệ pháp luật dân sự.
Xét theo tiêu chuẩn lí học: vật trước hết là một vật thể tồn tại xác định được bằng các đơn vị đo lường về khối lượng. Hình dáng, tính chất hóa, lí, sinh, những thuộc tính khác của vật trong mối tương quan với thế giới khách quan cả về mặt tự nhiên và xã hội,
Vật xét theo tiêu chuẩn pháp lí dân sự: vật phải tồn tại, có thực, con người phải chiếm hữu được, chi phối được, xác định được và phải sử dụng được trong sản xuất kinh doanh, sinh hoạt tiêu dùng nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của con người.
Vật xét theo chế độ pháp lí: vật đó theo quy định của pháp luật là vật cấm lưu thông, hạn chế lưu thông và vật được tự do lưu thông. Chế độ pháp lí đối với vật không phải là bất biến, mà có tính chất khả biến; một mặt nó phụ thuộc vào sự phát triển chung về kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn nhất định, mặt khác nó còn phụ thuộc vào quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia trong giai đoạn lịch sử nhất định đó.
Vật xét theo quan niệm xã hội : vật được nhiều người sử dụng và vật được số ít người sử dụng, vật mang giá trị kinh tế lớn, giá trị tinh thần cao và vật mang giá trị kinh tế thấp, giá trị tinh thần không cao,
Vật còn được xét theo nhiều tiêu chuẩn khác tùy thuộc vào tâm lí, thẩm mĩ và văn hóa sử dụng của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong từng thời kì phát triển lịch sử nhất định và phần lớn phụ thuộc vào trình độ, chuyên môn sản xuất vật chất và lưu thông hàng hóa của thời kỳ lịch sử đó,
Vậy vật khi nào là tài sản ? Để giải quyết vấn đề đặt ra cần căn cứ vào những tiêu chí của quan hệ pháp luật dân sự cụ thể để xác định. Điều 163 BLDS năm 2005 quy định về vật phải được hiểu như thế nào cho đúng? Không phải bất kì vật nào của thế giới vật chất cũng đều được coi là tài sản. Xét theo quan hệ này thì một vật nhất định được coi là tài sản nhưng nếu xét theo quan hệ cụ thể khác thì vật đó không thể được coi là tài sản. Để xác định một vật có được coi là tài sản hay không phải đặt vật đó trong từng quan hệ cụ thể và không thể lập luận theo một chiều, có vật là có tài sản được. Bởi vậy, vật là tài sản khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình thành trong tương lai xác định được;
Vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được, phải chiếm hữu được;
Vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi, vật đó phải khai thác được về tài sản (thương mại, dân sự, tiêu dùng), đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người;
Vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản, có thể trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay quy đổi được bằng tiền.
Như vậy, vật được hiểu theo khía cạnh vật lí khác về ý nghĩa so với vật được hiểu theo góc độ pháp lí. Vật được hiểu theo góc độ pháp lí là những vật được dùng trong quan hệ pháp luật cụ thể đồng thời vật là đối tượng của quan hệ pháp luật đó. Từ nhận định này thì tài sản bao gồm vật nhưng không phải mọi vật của thế giới vật chất đều được coi là tài sản trong quan hệ về quyền sở hữu và các quan hệ pháp luật dân sự khác. Việc xác định vật khi nào là tài sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp về tài sản. Khi xác định một vật là tài sản, để có căn cứ pháp lí xác định các quyền và nghĩa vụ về tài sản của các chủ thể trọng quan hệ pháp luật dân sự. Việc xác định vật là tài sản đồng thời là căn cứ để xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó của chủ thể nhất định. Từ đó có thể kết luận rằng, vật chỉ có thể được coi là tài sản khi nó được sử dụng vào mục đích xác lập quyền và nghĩa vụ tài sản của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nhất định và vật được xác định là đối tượng của quan hệ pháp luật đó.
Tiền
Tiền, theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay khi nó đang có giá trị và lưu hành trên thực tế. Có thể nói rằng việc sử dụng tiền là một phát minh vĩ đại của loài người. Một trong những chức năng cơ bản nhất của tiền là nhằm vào mục đích sử dụng trong giao dịch mua bán. Hợp đồng mua bán là hệ quả trực tiếp nhất của việc sử dụng tiền. Với việc phát minh ra tiền thì giao dịch mua bán được xác lập, tức là việc trao đổi vật để lấy một số tiền có giá trị tương đương. Với số tiền do bán được vật, người bán lại có thể trở thành người mua trong quan hệ mua bán khác, dùng số tiền do bán vật có được để lại mua lấy các tài sản cần thiết cho bản thân. Từ thời điểm đó, hợp đồng mua bán đã trở thành loại hợp đồng thông dụng nhất cho đến ngày nay.
Pháp luật Việt Nam coi tiền là một loại tài sản riêng biệt. Loại tài sản này có những đặc điểm pháp ký khác với vật. Có thể liệt kê một số điểm khác biệt giữa vật và tiền như sau:
Đối với vật, chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật đó( dùng nhà để ở, dùng xe mấy để đi,) còn đối với tiền thì không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ tiền hay đồng tiền xu đó. Tiền thực hiện ba chức năng chính là : công cụ thanh toán đa năng, công cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác. Khái niệm “quyền sử dụng” chỉ được áp dụng một cách trọn vẹn cho vật chứ không áp dụng được cho tiền;
Các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo ra nhưng tiền chỉ do nhà nước độc quyền phát hành. Việc phát hành tiền được coi là một trong những chủ quyền của mỗi quốc gia.
Vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông dụng còn tiền lại được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó.
Chủ sở hữu vật được toàn quyền tiêu hủy vật thuộc sở hữu của mình, còn chủ sở hữu của tiền thì lại không được tiêu hủy tiền ( không được xé, đốt, sửa chauwx , thay đổi kích thước, hình dạng, làm giả )
Như vậy, từ việc so sánh trên, có thể thấy rõ được một số điểm khác biệt về mặt pháp lí giữa vật và tiền. Dưới góc độ kinh tế thì việc sử dụng tiền được hiểu thông qua hành vi đầu tư tiền vào các loại hoạt động kinh doanh ( mua bán thiết bị, cho vay lấy lãi, góp vốn) hay tiêu dùng nhưng dưới góc độ luật dân sự thì các hành vi hay tiêu dùng đó lại phải được hiểu là các hành vi thực hiện quyền định đoạt tiền (chuyển giao quyền sở hữu tiền cho chủ thể khác) chứ không phải là quyền sử dụng. Dưới góc độ kinh tế, việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng ( gửi tiền vào tài khoản của mình trong ngân hàng ) thường được coi là hành vi cất giữ tiền, còn dưới góc độ luật dân sự thì việc gửi tiền vào ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác lại phải luôn được hiểu là hợp đồng cho vay tài sản. Bởi lẽ, sau khi gửi vào ngân hàng thì chính ngân hàng là chủ sở hữu khoản tiền đó và phải chịu rủi ro đối với khoản tiền đó. Người gửi khi ấy chấm dứt quyền sở hữu đối với số tiên vừa gửi, trở thành bên cho vay, có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán khoản tiền tương đương theo thời hạn. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà hợp đồng vay đó có thể có thời hạn hoặc không thời hạn, có thể có lãi hoặc không có lãi. Nói cách khác, dưới góc độ kinh tế thì không có sự khác biệt cơ bản về bản chất của tiền mặt và tiền trong tài khoản nhưng dưới góc độ luật dân sự thì “tiền trong tài khoản” lại được hiểu là quyền tài sản (quyền yêu cầu ) – một loại tài sản khác chứ không phải là tiền. Trong pháp luật dân sự, tiền có tính năng đặc biệt ( khác với vật) là khi chuyển giao tiền thì bao giờ cũng kèm theo chuyển giao quyền sở hữu, trừ trường hợp khi chuyển giao ta đặc định hóa gói tiền thông qua việc niêm phong gói tiền lại.
Chúng ta cũng nên phân biệt giữa nội tệ và ngoại tệ. Dưới góc độ kinh tế, nội tệ hay ngoại tệ cũng đều là tiền cả. Cách phân loại tiền thành nội tệ và ngoại tệ hoàn toàn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của một quốc gia: Một loại tiền được coi là nội tệ của quốc gia phát hành và là ngoại tệ đối với các quốc gia khác. Trước đây, khi chưa có bộ luật dân sự năm 2005 thì ngoại tệ không được coi là tiền bởi lẽ ngoại tệ không được coi là công cụ thanh toán đa năng _ một tính năng quan trọng nhất của tiền. Ngoại tệ được coi là một loại tài sản đặc biệt, thuộc nhóm hàng hóa hạn chế lưu thông. Chỉ nhữn chủ thể nhất định ( ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác, các tổ chức có chức năng hoạt động ngoại thương ) mới được phép xác lập giao dịch với nó. Theo đó, vấn đề khó giải quyết nhất khi ấy là nếu ngoại tệ không phải là tiền thì nó sẽ được xếp vào loại tài sản nào theo quy định tại điều 172 BLDS năm 1995 ( vật có thực, tiền, giấy tờ giá trị được bằng tiền, các quyền tài sản). Ngoại lệ cũng không nên coi là vật, bởi lẽ cũng không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ ngoại tệ được. Ngoại tệ cũng không nên coi là giấy tờ trị giá được bằng tiền hay quyền tài sản, bởi lẽ không thể xác định được ai là chủ thể nghĩa vụ trong đó. Phải chăng khó khăn đó xuất phát từ chính nguyên nhân khái niệm tài sản ( theo cách liệt kê khép kín được quy định tại điều 172 BLDS năm 1995) còn quá hạn hẹp. Nhưng giờ đây, với sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định tiền thanh toán là tiền Việt Nam như quy định tại BLDS năm 1995 thì về mặt pháp lí Tiền có thể được hiểu là nội tệ hoặc ngoại tệ. Tuy nhiên, ngoại tệ là loại tài sản hạn chế lưu thông chứ không được lưu hành rộng rãi như tiền Việt Nam.
Giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là lọai tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay, đặc biệt là trong ngân hàng và trong các tổ chức tín dụng khác. Nhưng trong Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định nó là một loại tài sản mà không có quy định cụ thể về cách hiểu đối với giấy tờ có giá. Vậy phải hiểu Giấy tờ có giá là như thế nào cho đúng với ý nghĩa là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự? Trong quy chế phát hành giấy tờ có giá của Tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước ( Ban hành kèm theo quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày 4/1/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhag nước ), giấy tờ có giá được hiểu là chứng nhận của Tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, được trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa Tổ chức tín dụng và người mua. Giấy tờ có giá ngắn hạn được hiểu là giấy tờ có giá cờ thời hạn dưới 1 năm bao gồm: kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có thời hạn 1 năm trở nên kể từ khi phát hành đến khi hết hạn bao gồm: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có gía vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá đó.
Theo nghĩa rộng, giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định ( tổ chức hoặc cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác. Tuy nhiên trong số giấy tờ minh chứng cho quyền tìa sản đó, có một số giấy tờ đặc biệt có thể chuyển giao được, ai đánh mất nó là mất quyền mà ai có nó thì có quyền, thì những giấy tờ này mới được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự.
Dưới góc độ pháp luật dân sự, những loại giấy tờ có giá ghi danh và cấm chuyển nhượng không được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong giao lưu dân sự bởi lẽ mất chúng không phải là mất tiền, chứng chỉ đơn giản là những loại giấy tờ có giá trị minh chứng cho quyền sử dụng, quyền yêu cầu, quyền sử dụng, quyền định đoạt hoặc quyến sở hữu nói chung mà thôi. Chỉ những giấy tờ có giá không ghi danh có thể chuyển giao, cầm cố, thế chấp,và mất nó coi như mất tiền mới được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005. Qua đó có thể thấy được rằng: Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Vậy dưới góc độ pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự giấy tờ có giá có những đặc điểm nào ? Đặc điểm của giấy tờ có giá bao gồm : Thứ nhất về mặt hình thức thì giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định; thứ hai là nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật ghi nhận và bảo hộ; thứ ba là giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ, một lần, việc chuyển nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu. Ngoài ra còn có thể kể thêm một số đặc điểm khác như có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro.
Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu, công tráikhác với tiền chỉ do cơ quan duy nhất là Ngân hàng nhà nước ban hành thì giấy tờ có giá có thể do rất nhiều các cơ quan khác ban hành như Chính phủ, Kho bạc, các công ty cổ phần. Nếu tiền luôn có mệnh giá nhất định thể hiện thước đo g