Sự lộn xộn về tỷ lệ chiết khấu bằng chứng về sự áp dụng không hoàn thiện phương pháp kiểm tra giảm giá trị của lợi thế thương mại tại Hồng Kông

Trong việc xác định giá trị thu hồi của các đơn vị tạo tiền theo phương pháp giá trị sử dụng, việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu được coi là vấn đề trung tâm trong việc quyết định độ lớn của chi phí giảm giá trị theo Chuẩn mực lập BCTC của Hồng Kông (HKFRS). Sự lựa chọn tỷ lệ chiết khấu tùy ý trong mô hình chiết khấu luồng tiền có thể được sử dụng một cách cơ hội để xuyên tạc chi phí giảm giá trị vì lợi ích của người lập BCTC và gây ra tính không minh bạch của BCTC. Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng về hành vi cơ hội liên quan đến giảm giá trị của Lợi thế Thương mại. Thông qua việc so sánh tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồng Kông trình bày trong năm 2005, nghiên cứu phát hiện ra rằng tỷ lệ chiết khấu được trình bày rất lộn xộn, trong đó tỷ lệ chiết khấu được trình bày cao hơn và thấp hơn thực tế so với tỷ lệ chiết khấu ước tính.

pdf11 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự lộn xộn về tỷ lệ chiết khấu bằng chứng về sự áp dụng không hoàn thiện phương pháp kiểm tra giảm giá trị của lợi thế thương mại tại Hồng Kông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ LỘN XỘN VỀ TỶ LỆ CHIẾT KHẤU Bằng chứng về sự áp dụng không hoàn thiện phương pháp kiểm tra giảm giá trị của Lợi thế Thương mại tại Hồng Kông Trần Mạnh Dũng, MBA - Đại học Kinh tế Quốc dân Nguyễn Chí Bính, MBA - Viện Đại học Mở Hà Nội Tóm tắt Trong việc xác định giá trị thu hồi của các đơn vị tạo tiền theo phương pháp giá trị sử dụng, việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu được coi là vấn đề trung tâm trong việc quyết định độ lớn của chi phí giảm giá trị theo Chuẩn mực lập BCTC của Hồng Kông (HKFRS). Sự lựa chọn tỷ lệ chiết khấu tùy ý trong mô hình chiết khấu luồng tiền có thể được sử dụng một cách cơ hội để xuyên tạc chi phí giảm giá trị vì lợi ích của người lập BCTC và gây ra tính không minh bạch của BCTC. Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng về hành vi cơ hội liên quan đến giảm giá trị của Lợi thế Thương mại. Thông qua việc so sánh tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồng Kông trình bày trong năm 2005, nghiên cứu phát hiện ra rằng tỷ lệ chiết khấu được trình bày rất lộn xộn, trong đó tỷ lệ chiết khấu được trình bày cao hơn và thấp hơn thực tế so với tỷ lệ chiết khấu ước tính. 1. Giới thiệu Lợi thế thương mại là chủ đề đáng tranh luận nhất ở nhiều nước trên thế giới. Từ xa xưa, Lợi thế thương mại được mô tả như là sự không nhìn thấy được, không tin cậy và có thể rắc rối. Với bản chất vô hình, lợi thế thương mại được coi là hay thay đổi và rắc rối trong việc ghi nhận, đo lường và báo cáo. Sau nhiều năm tranh luận gay gắt, lợi thế thương mại vẫn được coi như là chỉ tiêu lạc lõng trên Bảng cân đối kế toán. Do bản chất vô hình của Lợi thế thương mại và có nhiều cách hiểu khác nhau, sự thay đổi trong việc ghi nhận, đo lường và báo cáo nó cũng là điều dễ hiểu. Qua thời gian và hệ thống pháp lý, sự lộn xộn trong việc xử lý nó được mô tả trong các chuẩn mực kế toán. Cụ thể, Lợi thế thương mại được ghi giảm vào quỹ dự trữ hoặc vào lợi nhuận chưa phân phối; vốn hóa lợi thế thương mại và không ghi giảm nếu không có đủ bằng chứng; vốn hóa lợi thế thương mại và khấu hao định kỳ theo phương pháp đường thẳng; và vốn hóa lợi thế thương mại và xác định giảm giá trị. Trong ngữ cảnh của Hồng Kông, sự tranh luận về kế toán lợi thế thương mại và tài sản cố định vô hình đã diễn ra nhiều năm. Phương pháp khấu hao bắt buộc hàng năm đã bị thay thế bằng phương pháp mới, sự giảm giá trị của lợi thế thương mại dựa trên rất nhiều các giả định chủ quan. Sự áp dụng phương pháp mới này đã mở ra một trang mới, tuy nhiên cũng phải thấy rằng không đơn giản và dễ dàng trong việc áp dụng chuẩn mực. Theo chuẩn mực, có hai phương pháp để xác định giá trị có thể thu hồi của tài sản là phương pháp giá trị hợp lý và giá trị sử dụng. Trong việc áp dụng phương pháp giá trị sử dụng, mô hình chiết khấu luồng tiền được coi là mô hình có độ tin cậy cao trong việc xác định giá trị có thể thu hồi. Trong mô hình này, tỷ lệ chiết khấu được coi là rất quan trọng trong việc chiết khấu luồng tiền tương lai về giá trị hiện tại thông qua thời kỳ dự đoán. 2. Quy định chung Hồng Kông đã xây dựng khung pháp lý đầy đủ về kế toán, thể hiện qua hệ thống Chuẩn mực lập BCTC (HKFRS) và nó có hiệu lực từ 1/1/2005, chủ yếu dựa trên Chuẩn mực lập BCTC quốc tế. Theo Chuẩn mực kế toán số 36 “Sự giảm giá trị của tài sản”, lợi thế thương mại được vốn hóa, xác định giảm giá trị dựa vào các dấu hiệu thông tin bên trong và bên ngoài đơn vị, xác định chi phí giảm giá trị trong trường hợp giá trị có thể thu hồi thấp hơn giá trị ghi sổ. Theo nội dung chuẩn mực, giá trị có thể thu hồi được xác định cho từng tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp không thể xác định giá trị thu hồi riêng rẽ cho từng tài sản đơn vị xác định giá trị thu hồi cho một nhóm tài sản mà nhóm tài sản được xác định ở mức độ nhỏ nhất này tạo ra luồng tiền vào độc lập với luồng tiền vào của các nhóm tài sản khác. Nhóm tài sản này được gọi là đơn vị tạo tiền (CGU). Giá trị ghi sổ của đơn vị tạo tiền bao gồm giá trị ghi sổ của các tài sản trong nhóm. Giá trị ghi sổ được xác định dựa trên nguyên giá trừ (-) khấu hao lũy kế trừ (-) giảm giá trị lũy kế. Sau khi xác định giá trị có thể thu hồi cho các đơn vị tạo tiền, nếu giá trị thu hồi của các đơn vị tạo tiền lớn hơn giá trị ghi sổ, sẽ không phát sinh chi phí giảm giá trị tài sản, ngược lại sẽ xuất hiện chi phí giảm giá trị của các đơn vị tạo tiền. Chi phí giảm giá trị được hiểu là sự chênh lệch giữa giá trị ghi sổ và giá trị có thể thu hồi (khi giá trị ghi sổ lớn hơn giá trị thu hồi). Chi phí này sẽ bao gồm số tiền mà Lợi thế thương mại phân bổ cho đơn vị tạo tiền, tiếp theo sẽ phân bổ cho từng tài sản theo tỷ lệ % nguyên giá của từng tài sản trong nhóm đơn vị tạo tiền. Qua các nghiên cứu trước đây, hầu hết các công ty đều áp dụng phương pháp giá trị sử dụng trong việc xác định giá trị thu hồi. Trong phương pháp này, tỷ lệ chiết khấu là biến quan trọng trong mô hình chiết khấu luồng tiền từ tương lai về hiện tại. Tuy nhiên, đa số các công ty áp dụng tỷ lệ chiết khấu đồng nhất cho các đơn vị tạo tiền mặc dù các đơn vị tạo tiền có rủi ro khác nhau (công ty chỉ áp dụng 1 tỷ lệ chiết khấu cho các CGU). Qua đó nghiên cứu này tập trung vào việc so sánh tỷ lệ chiết khấu đồng nhất do công ty áp dụng và tỷ lệ chiết khấu ước tính. Trong trường hợp chênh lệch nhỏ, hành vi cơ hội có thể bị loại trừ. Nếu chênh lệch lớn thì sẽ cung cấp bằng chứng về việc sử dụng hành vi cơ hội trong việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu mong muốn nhằm xuyên tạc lợi nhuận cũng như các chỉ tiêu khác trên BCTC. 3. Thu thập số liệu và phương pháp nghiên cứu HKAS 36 có hiệu lực từ 1/1/2005, chính vì vậy số liệu được thu thập đối với BCTC cho năm tài chính kế thúc ngày 31/12/2005 và các đơn vị này được coi là lần đầu áp dụng chuẩn mực. Quy trình thu thập số liệu cụ thể như sau: Đầu tiên, dựa trên danh sách của 934 công ty niêm yết của thị trường chứng khoán Hồng Kông với vốn thị trường là 8.113 tỷ HK$ cuối năm 2005. Chọn ra 500 công ty có vốn thị trường lớn nhất (98.94% vốn thị trường). 285 công ty bị loại ra khỏi mẫu do không có lợi thế thương mại trên BCTC. 54 công ty bị loại do năm tài chính kết thúc khác với tháng 12. Kết quả là còn lại 161 công ty được chọn vào mẫu ban đầu. Trong số 161 công ty được chọn ban đầu, 21 công ty bị loại ra khỏi mẫu do không trình bày phương pháp xác định giá trị có thể thu hồi. 3 công ty bị loại do áp dụng phương pháp giá trị hợp lý, theo đó sẽ không có tỷ lệ chiết khấu. Tiếp đến 5 công ty bị loại ra khỏi mẫu do áp dụng phương pháp hỗn hợp (cả phương pháp giá trị hợp lý và giá trị sử dụng), theo đó sẽ không có số liệu về tỷ lệ chiết khấu đồng nhất. 46 Công ty bị loại ra khỏi mẫu do các công ty này áp dụng nhiều tỷ lệ chiết khấu, khoảng tỷ lệ chiết khấu hoặc không trình bày tỷ lệ chiết khấu. Như vậy mẫu bao gồm 86 công ty áp dụng phương pháp giá trị sử dụng trong việc xác định giá trị có thể thu hồi và sử dụng tỷ lệ chiết khấu giống nhau cho tất cả các đơn vị tạo tiền, mặc dù rủi ro liên quan đến từng đơn vị tạo tiền là khác nhau. Để so sánh tỷ lệ chiết khấu đồng nhất do các công ty trình bày và tỷ lệ chiết khấu ước tính, cần thiết để bảo đảm rằng tỷ lệ chiết khấu được áp dụng trên cơ sở có thể so sánh được, đó là tỷ lệ chiết khấu trước thuế. Nếu công ty trình bày tỷ lệ chiết khấu sau thuế thì quy đổi sang tỷ lệ chiết khấu trước thuế bằng cách lấy tỷ lệ chiết khấu sau thuế chia cho 1 trừ (-) đi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Mô hình đánh giá tài sản vốn (CAPM) được áp dụng để ước tính tỷ lệ chiết khấu. Mô hình này được xem là tối ưu trong việc xác định tỷ lệ chiết khấu vì nó phản ánh được việc đánh giá thị trường hiện tại và rủi ro liên quan đến từng đơn vị tạo tiền. Cụ thể: Thứ nhất, xác định giá trị Levered Beta (ßL). Levered Beta được hiểu là Beta phản ánh cơ cấu vốn bao gồm cả công nợ phải trả. Trong đó Beta đo lường sự nhạy cảm về giá cổ phiếu đến sự biến động của toàn bộ thị trường. ßL được thu thập từ phần mềm Datastream cuối năm 2005. Thứ hai, xác định Unlevered Beta ((ßU). Unlevered Beta là Beta phản ánh cơ cấu vốn không bao gồm công nợ phải trả. Unlevered Beta được xác định theo công thức được xây dựng bởi Hamada (1972). ßU = ßL / 1 + (D/E) * (1-t) Trong đó: D/E : Tỷ lệ Nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu t : Thuế suất thuế Thu nhập doanh nghiệp. Năm 2005 là 17.5%. Thứ 3, xác định tỷ lệ hoàn vốn sau thuế đối với tài sản (Ra). Ra có thể được xác định theo công thức: Ra = Rf + ßU * (Rm - Rf) Trong đó: Ra : Tỷ lệ hoàn vốn sau thuế đối với tài sản Rf : Tỷ lệ lãi suất tự do dài hạn Rm - Rf : Chênh lệch giữa tỷ lệ hoàn vốn thị trường và tỷ lệ lãi suất tự do dài hạn. Tỷ lệ lãi suất tự do dài hạn là 4,18%, đó là tỷ lệ sinh lời của trái phiếu chính phủ 10 năm ở thời điểm tháng 12/2005. Rm-Rf có tỷ lệ là 6%. Tỷ lệ này nhất quán trong kết quả của Gameiro (2008) khi tác giả sử dụng dữ liệu cho thời kỳ 1995 đến 2008 và tỷ lệ này cũng phù hợp với khoảng rủi ro thị trường ước tính đối với vốn cổ đông trong các nghiên cứu của Song (2007), Gameiro (2008), Fernandez (2008a, 2008b). Cuối cùng, xác định tỷ lệ chiết khấu trước thuế. Tỷ lệ này được xác định bằng cách lấy tỷ lệ hoàn vốn sau thuế cụ thế đối với tài sản chia cho 1 trừ (-) thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế suất thuế TNDN năm 2005 là 17,5%. Sau khi xác định tỷ lệ chiết khấu ước tính, tiến hành so sánh với tỷ lệ chiết khấu do doanh nghiệp sử dụng. Sự thay đổi được phân nhóm theo ngành và theo điểm cơ bản của từng công ty. Theo hệ thống phân loại ngành Hang Seng, có 11 ngành được thiết kế phản ánh thực hiện cổ phiếu trong các lĩnh vực khác nhau. Một hệ thống điểm cơ bản (bp) được xây dựng để thuận lợi hơn trong việc so sánh giữa tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do đơn vị áp dụng. Điểm cơ bản được tính toán dựa trên tỷ lệ chiết khấu ước tính độc lập và được phân thành 5 nhóm. Cụ thể, nhóm trong khoảng -150 đến +150 bps (vùng hợp lý); +150 đến +250 bps, cao hơn +250 bps, - 250 đến -150 bps và nhóm thấp hơn -250 bps. Ví dụ, giả sử tỷ lệ chiết khấu ước tính là 10%/năm, điểm cơ bản -150 bps sẽ là 8.5%, điểm cơ bản -250 bps là 7,5%, điểm cơ bản +150 bps là 11.5%, và điểm cơ bản +250 bps là 12.5%. 4. Kết quả và thảo luận Nghiên cứu này điều tra sự thay đổi giữa tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do công ty áp dụng. Dữ liệu được thu thập và kết quả của nghiên cứu này sẽ khẳng định thêm kết quả của các nghiên cứu trước đây về chất lượng trình bày và tính tuân thủ bằng việc kiểm tra giảm giá trị của lợi thế thương mại. Như đề cập ở phần trên, điều kiện tiên quyết đó là các công ty trong mẫu áp dụng tỷ lệ chiết khấu đồng nhất cho tất cả các đơn vị tạo tiền. Số liệu trong Bảng 1 chỉ ra rằng khoảng 2/5 số công ty trong mẫu xác định duy nhất 1 đơn vị tạo tiền (chiếm khoảng 40% trong tổng thể mẫu). Có mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa số lượng công ty và số đơn vị tạo tiền. Cụ thể số lượng nhiều công ty xác định ít đơn vị tạo tiền hơn là ít công ty xác định nhiều đơn vị tạo tiền. Bảng 1: Số đơn vị tạo tiền (CGU) theo ngành Ngành Số lượng công ty 1 CGU 2 CGUs 3 CGUs 4 CGUs 5 CGUs > 5 CGUs Không trình bày Kinh doanh nhiều ngành 3 1 - - - - 1 1 Hàng tiêu dùng 19 10 3 2 - - 1 3 Năng lượng 2 - 1 - 1 - - - Tài chính 8 4 - 2 1 1 - - Hàng công nghiệp 8 2 2 1 - - - 3 Công nghệ thông tin 5 1 2 1 - - - 1 Nguyên vật liệu 4 1 1 1 - - - 1 Xây dựng và bất động sản 10 6 3 1 - - - - Dịch vụ 20 8 5 2 1 1 1 2 Viễn thông 1 - - - - - - 1 Dịch vụ công cộng 6 2 2 1 - - 1 - Tổng cộng (n) 86 35 19 11 3 2 4 12 Khoảng 60% các công ty xác định hơn 1 CGU. Có một thực tế đó là, nếu số CGU càng lớn, sẽ rất khó chấp nhận tính hữu hiệu về rủi ro đồng nhất liên quan đến tỷ lệ chiết khấu đồng nhất cho tất cả các CGU. Do vậy, số liệu trong Bảng 1 cung cấp bằng chứng về khả năng các công ty lựa chọn tỷ lệ chiết khấu không hợp lý cho tất cả các CGU được áp dụng trong quá trình kiểm tra giảm giá trị của tài sản. Việc sử dụng tỷ lệ chiết khấu không hợp lý sẽ làm trầm trọng hơn sai sót về chi phí giảm giá trị và lợi nhuận trước thuế. Để nghiên cứu sự khác biệt giữa tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do công ty sử dụng, số liệu trong Bảng 2 chỉ ra số lượng công ty được phân theo ngành và theo điểm cơ bản dựa trên tỷ lệ chiết khấu ước tính. Nếu tỷ lệ chiết khấu nằm trong vùng có thể chấp nhận được, trong khoảng từ -150 bps đến +150 bps thì sẽ không có thiên lệch trong việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Nếu ngoài khoảng đó thì ít hoặc nhiều sẽ ảnh hưởng đến kết quả của giá trị có thể thu hồi của các CGU cũng như lợi nhuận trên BCTC. Hơn 1/3 số công ty trình bày tỷ lệ chiết khấu nằm trong khoảng hợp lý (từ -150 đến +150 bps). Điểm đáng ngạc nhiên đó là trong số tỷ lệ chiết khấu ngoài khoảng 150 bps, số lượng công ty sử dụng tỷ lệ chiết khấu thấp hơn -150 bps thì có nhiều hơn chút ít số lượng các công ty sử dụng tỷ lệ chiết khấu cao hơn +150 bps. Số lượng các công ty sử dụng tỷ lệ chiết khấu trong khoảng thấp hơn -250 bps và cao hơn +250 bps thì cao hơn nhiều so với số lượng các công ty sử dụng tỷ lệ chiết khấu nằm trong khoảng (-250 đến - 150 bps) và (+150 bps đến +250 bps). Điều này hàm ý rằng có nhiều khả năng nhiều công ty áp dụng tỷ lệ chiết khấu không hợp lý, dẫn đến việc ghi nhận và báo cáo chi phí giảm giá trị lợi thế thương mại sai lệch theo hai chiều hướng trái ngược nhau, đó là ghi thấp hơn thực tế và ghi cao hơn thực tế. Bảng 2: Phân tích sự thay đổi tỷ lệ chiết khấu theo ngành Ngành Số lượng công ty Thấp hơn -250 bps Từ - 250 đến -150 bps Từ - 150 đến +150 bps Từ +150 đến +250 bps Lớn hơn +250 bps Kinh doanh nhiều ngành 3 1 - 1 1 - Hàng tiêu dùng 19 6 - 9 1 3 Năng lượng 2 1 - - - 1 Tài chính 8 3 - - - 5 Hàng công nghiệp 8 4 - 3 - 1 Công nghệ thông tin 5 2 1 - - 2 Nguyên vật liệu 4 1 1 2 - - Xây dựng và bất động sản 10 3 1 4 - 2 Dịch vụ 20 2 3 9 1 5 Viễn thông 1 - - 1 - - Dịch vụ công cộng 6 - 2 1 - 3 Tổng cộng (n) 86 23 8 30 3 22 Phương pháp khác để tiếp cận đến sự thay đổi giữa tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do công ty sử dụng được minh chứng trong Bảng 3. Số liệu bảng này phản ánh giá trị lợi thế thương mại được phân theo ngành và theo điểm cơ bản. Các công ty báo cáo số dư lợi thế thương lại là 62.8 tỷ đôla Hồng Kông, trong đó giá trị lợi thế thương mại trong vùng hợp lý là khoảng 43 tỷ đôla, chiếm 68% trong giá trị tổng thể. Giá trị lợi thế thương mại đối với những công ty trình bày tỷ lệ chiết khấu ngoài khoảng +150 bps thì lớn hơn giá trị lợi thế thương mại đối với những công ty trình bày tỷ lệ chiết khấu thấp hơn -150 bps. Một điểm dễ nhận thấy đó là giá trị lợi thế thương mại trong cột lớn hơn 250 bps thì lớn hơn rất nhiều giá trị lợi thế thương mại trong cột có khoảng từ +150 đến +250 bps, nhưng giá trị lợi thế thương mại trong cột có khoảng từ - 250 đến -150 bps thì lớn hơn giá trị lợi thế thương mại có cột thấp hơn -250 bps. Trong giá trị 43 tỷ đôla của lợi thế thương mại nằm trong vùng hợp lý (từ -150 bps đến +150 bps), có một công ty China Mobile có số dư lợi thế thương mại là 33,9 tỷ đôla, chiếm khoảng 80% giá trị trong nhóm này. Nếu trường hợp này được loại ra khỏi mẫu (do có số dư lợi thế thương mại cao hơn hẳn tất cả các trường hợp khác), thì tỷ lệ % các công ty trình bày tỷ lệ chiết khấu cao hơn hoặc thấp hơn vùng hợp lý sẽ càng lớn. Như vậy, có thể dễ dàng hiểu rằng, việc ghi nhận chi phí giảm giá trị lợi thế thương mại hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của công ty. Số liệu qua Bảng trên minh chứng rằng các công ty này đặt ra mức lợi nhuận mong muốn trước khi ghi nhận chi phí giảm giá trị lợi thế thương mại thông qua việc sử dụng lộn xộn và tùy ý tỷ lệ chiết khấu. Việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu cao hơn thực tế sẽ trì hoàn chi phí giảm giá trị lợi thế thương mại trong kỳ này và dẫn đến lợi nhuận trong kỳ bị ghi cao hơn thực tế và ngược lại. Bảng 3: Giá trị lợi thế thương mại (LTTM) phân theo ngành và theo tỷ lệ chiết khấu Ngành Thấp hơn -250 bps Từ -250 đến - 150 bps Từ -150 đến +150 bps Từ +150 đến +250 bps Lớn hơn +250 bps Tổng cộng LTTM (triệu đôla) Kinh doanh nhiều ngành 397,99 - 175,00 2,28 - 575,27 Hàng tiêu dùng 817,85 - 4.048,23 111,05 239,52 5.216,65 Năng lượng 147,08 - - - 237,91 384,99 Tài chính 124,08 - - - 5.398,63 5.522,71 Hàng công nghiệp 1.820,42 - 127,66 - 125,65 2.073,73 Công nghệ thông tin 346,68 2.784,27 - - 495,34 3.626,29 Nguyên vật liệu 63,11 292,17 371,65 - - 726,93 Xây dựng và bất động sản 85,58 458,27 372,31 - 499,22 1.415,38 Dịch vụ 28,16 1.542,25 2.065,15 60,39 3.304,25 7.000,20 Viễn thông - - 33.926,83 - - 33.926,83 Dịch vụ công cộng - 247,06 1.926,86 - 220,71 2.394,63 Tổng cộng (n=86) 3.830,95 5.324,02 43.013,69 173,72 10.521,23 62.863,61 5. Kết luận Lợi thế thương mại, giảm giá trị và trình bày nó trong chuẩn mực kế toán theo chuẩn mực lập BCTC quốc tế được coi là vấn đề đáng tranh luận nhất trong việc lập BCTC xét cả về lý luận và thực tiễn. Khi áp dụng phương pháp giá trị sử dụng để xác định giá trị có thể thu hồi của các CGU, việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu được coi là nhân tố quan trọng trong mô hình xác định giá trị kinh tế. Với độ tin cậy cao của mô hình chiết khấu luồng tiền, tỷ lệ chiết khấu sẽ quyết định độ lớn của chi phí giảm giá trị bằng việc chiết khấu luồng tiền trong tương lai về giá trị hiện tại. Liên quan đến việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu để xác định giá trị có thể thu hồi của các CGU, các nghiên cứu trước đó đã cung cấp bằng chứng về hành vi cơ hội trong việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Kết quả là tỷ lệ chiết khấu bị trình bày thấp hơn và cao hơn thực tế, như vậy tính “trung thực và hợp lý” của các khoản mục trên BCTC bị vi phạm nghiêm trọng. Thật đáng buồn thay, bằng việc so sánh tỷ lệ chiết khấu ước tính và tỷ lệ chiết khấu do các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồng Kông trong năm 2005, năm đầu tiên áp dụng chuẩn mực giảm giá tài sản theo chuẩn mực lập BCTC quốc tế, nghiên cứu này phát hiện ra rằng, tỷ lệ chiết khấu bị trình bày sai phạm trọng yếu, trình bày cả thấp hơn và cao hơn so với thực tế. Cuối cùng thì hành vi cơ hội trong việc kiểm tra giảm giá trị lợi thế thương mại cũng đã được bộc lộ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự minh bạch của BCTC. Rõ ràng rằng, ý tưởng áp dụng kiểm tra giảm giá trị lợi thế thương mại là hoàn toàn tốt. Nếu công ty tuân thủ đầy đủ yêu cầu của chuẩn mực, người sử dụng BCTC có nhiều cơ hội hơn về tính trung thực và hợp lý của BCTC và đánh giá tính sắc bén của phương pháp kế toán áp dụng, bao gồm cả phương pháp giảm giá trị lợi thế thương mại. Tuy nhiên, kết quả hiện tại cho thấy hoàn toàn không dễ dàng chuyển từ ý tưởng sang thực tế, ít nhất thì cũng đúng trong nghiên cứu này. Nếu có thiên vị trong việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu, không ai dám khẳng định chất lượng thực sự của báo cáo lợi nhuận và độ tin cậy của mô hình xác định giá trị kinh tế. Điều này gây ra sự lo lắng không chỉ đối với các nhà ban hành chính sách, những người sử dụng BCTC mà còn đối với cả kiểm toán viên trong quá trình tiến hành kiểm toán.
Tài liệu liên quan