1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với lâm nghiệp
1.1 Giới thiệu chung về lĩnh vực lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù có vị trí kinh tế, xã hội và
môi trường rất quan trọng, là một phần không thể tách rời khỏi nông nghiệp, nông
thôn và nông dân Việt Nam. Hiện tại ngành lâm nghiệp quản lý sử dụng hơn một
nửa lãnh thổ đất nước, liên quan trực tiếp đến đời sống của khoảng 25 triệu đồng
bào, trong đó có 7 triệu đồng bào dân tộc thiểu số. Nói đến lâm nghiệp là nói đến
rừng và nghề rừng. Lâm nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các khâu,
từ trồng, chăm sóc, bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên đến khai thác, bảo quản, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm, vv Rừng là yếu tố cơ bản của môi trường tự nhiên, góp
phần quan trọng vào phát triển bền vững đất nước, vào sự tăng trưởng kinh tế, ổn
định xã hội và an ninh quốc phòng. Rừng đóng một vai trò không thể thiếu trong
việc cung cấp các sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và xã hội, bảo vệ
môi trường sống, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý bền vững cảnh quan và góp
phần bảo vệ an ninh quốc gia, tạo việc làm cho nhân dân, nhất là người dân miền
núi, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nếu như trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, rừng
là căn cứ địa kháng chiến, là vành đai bảo vệ biên giới, thì trong công cuộc xây
dựng đất nước, rừng là vành đai phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, là tư liệu
sản xuất chính trong lâm nghiệp, là công cụ chống ô nhiễm, bảo vệ môi sinh, là
nguồn sinh thủy cho sản xuất và phục vụ đời sống.
10 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của biến đổi khí hậu đối với lâm nghiệp và đề xuất một số hoạt động giảm thiểu và thích ứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo lần 1: "Xây dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm
nhẹ tác động do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, ngày 14-15/8/2008
1
TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI LÂM NGHIỆP VÀ
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG GIẢM THIỂU VÀ THÍCH ỨNG
ThS.Phạm Minh Thoa, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp
TS. Phạm Mạnh Cường, Chuyên viên Cục Lâm nghiệp
1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với lâm nghiệp
1.1 Giới thiệu chung về lĩnh vực lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù có vị trí kinh tế, xã hội và
môi trường rất quan trọng, là một phần không thể tách rời khỏi nông nghiệp, nông
thôn và nông dân Việt Nam. Hiện tại ngành lâm nghiệp quản lý sử dụng hơn một
nửa lãnh thổ đất nước, liên quan trực tiếp đến đời sống của khoảng 25 triệu đồng
bào, trong đó có 7 triệu đồng bào dân tộc thiểu số. Nói đến lâm nghiệp là nói đến
rừng và nghề rừng. Lâm nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các khâu,
từ trồng, chăm sóc, bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên đến khai thác, bảo quản, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm, vvRừng là yếu tố cơ bản của môi trường tự nhiên, góp
phần quan trọng vào phát triển bền vững đất nước, vào sự tăng trưởng kinh tế, ổn
định xã hội và an ninh quốc phòng. Rừng đóng một vai trò không thể thiếu trong
việc cung cấp các sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và xã hội, bảo vệ
môi trường sống, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý bền vững cảnh quan và góp
phần bảo vệ an ninh quốc gia, tạo việc làm cho nhân dân, nhất là người dân miền
núi, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nếu như trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, rừng
là căn cứ địa kháng chiến, là vành đai bảo vệ biên giới, thì trong công cuộc xây
dựng đất nước, rừng là vành đai phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, là tư liệu
sản xuất chính trong lâm nghiệp, là công cụ chống ô nhiễm, bảo vệ môi sinh, là
nguồn sinh thủy cho sản xuất và phục vụ đời sống.
Tài nguyên rừng ở Việt Nam rất phong phú đa dạng. Việt Nam có 11.373 loài
thực vật thuộc 2.524 chi và 378 họ (30% trong số này là loài đặc hữu), 224 loài thú,
838 loài chim và 258 loài bò sát. Các hệ sinh thái rừng của Việt Nam rất đa dạng
với nhiều kiểu rừng, đầm lầy và sông suối, vvtạo nên môi trường sống cho
khoảng 10% tổng số loài chim và thú trên toàn cầu. Nhiều loài động, thực vật độc
đáo chỉ tìm thấy ở Việt Nam. Việt Nam là quê hương của 3% các loài hoang dã
có nguy cơ tuyệt chủng trên toàn cầu. Do đó, Việt Nam là một trong các quốc gia
có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới, được công nhận là một quốc gia cần
được ưu tiên cao cho bảo tồn toàn cầu. Tính đến tháng 12 năm 2006, sau hơn 8 năm
thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã trồng mới được 1,64 triệu ha, khoanh
nuôi xúc tiến tái sinh và trồng bổ sung 1,04 ha, khoán chăm sóc bảo vệ trung bình
mỗi năm là 2,471 ha, trồng được tổng số 1,6 tỷ cây phân tán, giải quyết việc làm
cho 470.874 hộ gia đình. Trong giai đoạn 1996-2007, kim ngạch xuất khẩu hàng gỗ
của Việt Nam đã liên tục tăng từ 61 triệu USD năm 1996 lên gần 2,5 tỷ USD năm
2007.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
thì độ che phủ của rừng đã bị suy giảm nghiêm trọng từ 43,7 % (14,3 triệu ha) năm
1943 xuống còn 28 % (9,3 triệu ha) vào năm 1993. Sau nhiều nỗ lực, tính đến thời
Hội thảo lần 1: "Xây dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm
nhẹ tác động do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, ngày 14-15/8/2008
2
điểm 31/12/2007, độ che phủ của rừng đạt 38,2% (tương ứng với diện tích rừng là
12,87 triệu ha) trong đó có 10,28 triệu ha rừng tự nhiên và 2,55 triệu ha rừng trồng
(Bộ NN và PTNT, 2008). Diện tích rừng bình quân trên đầu người ở Việt Nam hiện
là 0,15 ha/người. Mặc dù diện tích rừng tăng lên từ năm 1995 đến 2007 về số lượng
nhưng trữ lượng và chất lượng rừng nhìn chung giảm, nhiều cánh rừng tự nhiên trở
thành rừng nghèo. Theo số liệu báo cáo của Chương trình Điều tra, theo dõi diễn
biến tài nguyên rừng toàn quốc chu kỳ III (2001-2005) thì hiện nay rừng tự nhiên
chỉ có 9% là rừng giàu (trữ lượng trên 150 m3/ha), 33% rừng trung bình (trữ lượng
80-150 m3/ha) và khoảng 58% rừng nghèo (trữ lượng dưới 80 m3/ha). Rừng tự
nhiên giàu và trung bình chủ yếu chỉ còn ở vùng núi cao, địa hình hiểm trở, giáp
biên giới Việt - Lào thuộc vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Trung Bộ. Đa dạng
sinh học và các chức năng dịch vụ môi trường của rừng bị đe dọa. Mặc dù số lượng
loài còn tương đối cao, nhưng tổng số cá thể của nhiều loài lại rất thấp, thậm
chí có nguy cơ bị tuyệt chủng. Rừng và nghề rừng chưa thực sự phát huy hết vai
trò quan trọng vốn có của nó, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn sản xuất và
đời sống. Theo thống kê, hiện nay 80% nguyên liệu gỗ phục vụ cho công nghiệp
chế biến lâm sản vẫn còn phải nhập từ nước ngoài. Hệ thống chính sách tuy đã khá
đủ nhưng còn nhiều bất cập, mâu thuẫn, chưa phù hợp với thực tiễn rất đa dạng ở
các vùng miền, chưa thật sự tạo động lực để toàn dân tích cực tham gia quản lý bảo
vệ và phát triển rừng bền vững.
Địa bàn lâm nghiệp chủ yếu là địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, tập
trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, cơ sở hạ tầng thấp kém thiếu đồng bộ với
lực lượng lao động tương đối đông nhưng đại đa số còn rất nghèo, trình độ dân trí
chưa cao. Chính vì vậy, mọi tác động xấu đối với lâm nghiệp sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống của đại đa số đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và
tác động mạnh đến phát triển kinh tế, ổn định xã hội và an ninh lương thực của
quốc gia. Có rất nhiều yếu tố tác động xấu đến lâm nghiệp và một trong những
yếu tố đó là biến đổi khí hậu.
1.2 Tác động của biến đổi khí hậu tới lâm nghiệp
Theo số liệu quan trắc, trong những năm vừa qua thời tiết nước ta đã có những
biến động bất thường và có mối quan hệ chặt chẽ với những thay đổi lớn của khí
hậu toàn cầu. Sự biến động phức tạp của thời tiết có thể gây ra nhiều hậu quả khác
nhau. Có thể nêu ra đây hai nhóm hiện tượng thời tiết cực hạn quan trọng nhất.
Trước hết đó là khả năng tăng tần suất và mức độ gây hại của các hiện tượng thiên
tai như bão, lũ lụt. Mưa, lũ tăng lên đồng nghĩa với việc tăng nguy cơ ngập lụt ở các
vùng trũng vốn thường xuyên bị ngập, gây chua úng, xói lở đất, trượt lở đất trên
diện rộng, làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đến tài nguyên thiên nhiên và cuộc
sống của con người. Hiện tượng thời tiết cực hạn quan trọng thứ hai chính là hạn
hán. Hạn hán đã gây nhiễm mặn, nhiễm phèn ở vùng đồng bằng ven biển đe dọa
trực tiếp tới sự phát triển và tính đa dạng sinh học của rừng ngập mặn và rừng tràm
đồng thời làm tăng nguy cơ cháy rừng. Đối với sản xuất lâm nghiệp, đây là loại
thiên tai tồi tệ nhất, xảy ra ngày càng nghiêm trọng với tần suất và quy mô ngày
càng lớn gây nhiều thiệt hại và kéo dài dai dẳng . Như vậy, hai yếu tố liên quan chặt
chẽ tới biểu hiện của biến đổi khí hậu là nhiệt độ và lượng mưa.
Hội thảo lần 1: "Xây dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm
nhẹ tác động do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, ngày 14-15/8/2008
3
Theo báo cáo về Biến đổi khí hậu và Phát triển con người ở Việt Nam của
Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP, 2007,), từ năm 1900 đến năm
2000, mỗi thập kỷ, nhiệt độ trung bình ở Viêt Nam tăng 0,1 0C. Mùa hè trở nên
nóng hơn, với nhiệt động trung bình tăng 0,1-0,3 0C/thập kỷ. So với năm 1990,
nhiệt độ trung bình năm 2050 sẽ tăng 1,4-1,5 0C và nhiệt độ trung bình năm 2100 sẽ
tăng 2,5-2,8 0C. Đất liền sẽ là nơi có nhiệt độ cao nhất. So với năm 1990, lượng
mưa trung bình hàng năm sẽ tăng 2,5-4,8 % vào năm 2050 và 4,7-8,8% vào năm
2100. Lượng mưa tăng cao nhất ở phía Bắc Việt Nam và thấp nhất ở đồng bằng
Nam bộ. Lượng mưa sẽ tập trung hơn vào các tháng mùa mưa, hạn hán sẽ nghiêm
trọng hơn vào mùa khô. Biến đổi khí hậu đã và đang làm cho lượng mưa thay đổi
bất thường và rất khác nhau theo mùa và theo vùng (Schaefer, 2003). Lượng mưa
hàng tháng đã giảm ở hầu hết các vùng trong cả nước vào tháng 7 và 8, tăng lên vào
tháng 9, 10 và 11 (Bộ TN và MT, 2003).
Sự biến động của thời tiết Việt Nam có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến
rừng và nghề rừng. Có thể nêu ra hai khía cạnh quan trọng nói lên mối tương tác
giữa biến đổi khí hậu và lâm nghiệp.
Thứ nhất
Sự phát triển chưa bền vững của rừng và nghề rừng lại đã và đang góp phần
làm tăng thêm tính cực đoan của khí hậu thời tiết Việt Nam.
Mất rừng làm tăng 15% phát thải khí nhà kính trên toàn cầu. Mất rừng,
suy thoái rừng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp ước tính làm
phát thải 19,38 triệu tấn CO2, chiếm 18,7 % tổng lượng khí phát thải ở Việt
Nam (Vietnam Initial NatCom, 2003). Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy
trong mùa khô độ ẩm của đất ở các vùng không có cây che phủ chỉ bằng 1/3 so
với độ ẩm của đất ở những nơi có rừng che phủ. Tại một số nơi không có rừng
che phủ, nhiệt độ trên mặt đất có thể lên tới 50 – 600C vào buổi trưa hè. Những
đặc điểm cơ lý của đất như độ tơi xốp, độ liên kết, độ thấm, hàm lượng các chất
dinh dưỡng và hàm lượng vi sinh bị giảm đi đáng kể, đất trở nên khô, cứng, bị
nén chặt, không thích hợp cho trồng trọt. Hàng triệu ha đất trống, đồi trọc đã
mất rừng lâu năm, đất mặt bị biến đổi cấu tượng và lý hoá tính, trở nên dễ bị
xói mòn, rửa trôi, tích tụ sắt nhôm gây nên hiện tượng kết von và đá ong hóa,
khả năng sản xuất nông lâm nghiệp bị suy giảm nghiêm trọng.
Thứ hai
Sự biến động phức tạp của thời tiết đang và sẽ gây ra nhiều tác hại tới rừng
và nghề rừng. Biến đổi khí hậu đe dọa tới đa dạng sinh học rừng, làm tăng nguy
cơ mất rừng, nguy cơ chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp và do đó
làm tăng nguy cơ phát thải khí nhà kính. Nhiệt độ tăng, lượng mưa giảm sẽ làm
tăng nguy cơ cháy rừng, tăng dịch bệnh và làm giảm khả năng chống chọi của
các hệ sinh thái rừng trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu sẽ
làm thay đổi tổ thành và cấu trúc của một số hệ sinh thái rừng, buộc các loài
phải di cư và tìm cách thích ứng với điều kiện sống mới. Biến đổi khí hậu sẽ
làm tăng nguy cơ tuyệt chủng một số loài động thực vật, gây khó khăn cho
công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Một số loài nếu không thích nghi được với
môi trường sống mới thì mãi mãi sẽ biến mất khỏi hành tinh. Theo dự báo, năm
Hội thảo lần 1: "Xây dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm
nhẹ tác động do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, ngày 14-15/8/2008
4
2070, các loài cây nhiệt đới vùng núi cao sẽ có thể sống được ở độ cao 100-550
m và dịch lên phía bắc 100-200 km (Vietnam Initial NatCom, 2003). Tuy
nhiên, điều này phải được quan tâm nghiên cứu kỹ hơn, vì theo tự nhiên, một
loài thực vật phải mất ít nhất 100 năm mới có thể sống và phát triển thành quần
thể ở một nơi cách quê hương của nó chỉ có 1 km.
Sự biến động phức tạp của thời tiết có thể gây ra nhiều hậu quả khác nhau,
liên quan rất mật thiết đến hiện trạng tài nguyên rừng và có ảnh hưởng tới các
vùng với những mức độ khác nhau.
Đối với vùng núi và trung du phía Bắc: Độ che phủ trung bình của rừng ở
khu vực này hiện nay khoảng 44,2% (Cục Kiểm Lâm, 31/12/2006). Tuy nhiên,
độ che phủ này không đồng đều, thấp nhất là Hà Tây (7,4%), cao nhất là Tuyên
Quang (61,8%). Mặc dù đã có nhiều dự án trữ nước được thực hiện, song do
độ dốc lớn, địa hình bị chia cắt mạnh nên phần lớn các hồ chứa nước đều có
quy mô nhỏ. Thêm vào đó, do độ che phủ của rừng không đồng đều và chất
lượng rừng không cao nên trong những năm có lượng mưa nhỏ, việc phòng
chống hạn không có mấy hiệu quả.
Đối với vùng ven biển Trung Bộ: Độ che phủ của rừng trung bình tại vùng
này khoảng 44,4 %. Do địa hình phức tạp với các dãy núi cao chạy sát biển,
xen kẽ với những đồng bằng nhỏ hẹp chịu ảnh hưởng nhiều của các đợt gió
mùa nóng và khô , lượng mưa thấp nên điều kiện khí hậu của khu vực này khắc
nghiệt nhất toàn quốc. Độ che phủ của rừng không đồng đều, lưu vực sông
ngắn và dốc đã hạn chế khả năng điều tiết dòng chảy của hệ thống tưới tiêu và
sông ngòi, dễ gây ra lũ lụt nhanh, bất ngờ và hạn hán kéo dài. Do vậy sản xuất
lương thực gặp rất nhiều khó khăn và đời sống của nhân dân luôn ở trong tình trạng
phải đối phó với thiên tai. Khu vực này cũng được coi là khu vực trọng điểm trong
Chương trình hành động quốc gia chống hoang mạc hoá.
Đối với vùng Tây Nguyên: Đây là vùng đất bazan rộng lớn nhất Việt Nam. Loại đất
bazan thường dễ hấp thụ nước và do có độ che phủ trung bình của rừng cao nhất nước
(54,5%) nên nguồn nước ngầm ở đây còn khá dồi dào. Tuy vậy, khí hậu bất thường trong
các năm 1993, 1998, 2004 và sự khai thác quá mức nguồn nước cho trồng cây công
nghiệp đã gây nên sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa nước mặt và nước ngầm, giữa khả
năng cung cấp nước tưới và yêu cầu phát triển sản xuất. Nguy cơ cháy rừng, mất rừng do
nạn khai thác lậu và lấy đất trồng cây ngắn ngày vẫn đang là vấn đề bức xúc đối với
ngành lâm nghiệp ở địa bàn đầu nguồn các con sông lớn và còn diện tích rừng tự nhiên
lớn nhất cả nước này.
Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long: Đây là vùng có độ che phủ trung
bình thấp nhất cả nước (12,1%). Nhiều nơi vùng châu thổ sông Mê Công bị tác
động của phèn hoá ngày càng nặng do các khu rừng tràm bị phá hoại nghiêm trọng
để lấy đất sản xuất nông nghiệp. Nhiều khu rừng ngập mặn cũng đã bị phá huỷ để
làm hồ nuôi tôm. Việc phá huỷ lớp phủ bề mặt đã làm giảm khả năng giữ nước của
đất, tạo điều kiện để các tầng nhiễm mặn dưới sâu xâm nhập dần lên bề mặt đất, gây
mặn hóa, phèn hoá toàn bộ tầng đất mặt, làm chết nhiều loại cây trồng và thuỷ sản.
Trong vòng nửa thế kỷ qua, hầu như toàn bộ lãnh thổ Việt Nam đều trải
qua những biến đổi lớn về khí hậu và thời tiết. Sự biến đổi khí hậu ngày càng
Hội thảo lần 1: "Xây dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm
nhẹ tác động do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, ngày 14-15/8/2008
5
phức tạp đã dẫn tới hậu quả là thiên tai ngày một thường xuyên và nghiêm
trọng hơn. Có thể liệt kê mấy loại thiên tai có ảnh hưởng nhiều đến sản xuất
lâm nghiệp:
Hạn hán: Theo Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), châu Á là khu vực bị
thiên tai nặng nề nhất trong vòng 50 năm qua, trong đó thiệt hại về tài sản do
hạn hán gây ra đứng thứ ba sau lũ và bão. Có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau để
đánh giá hạn hán. Tuy nhiên, trên quan điểm nông nghiệp có thể thấy hạn hán
thường xảy ra vào mùa khô, nắng nóng, lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa
nhiều lần, đã làm cây trồng khô héo nhanh chóng, làm tăng nguy cơ cháy rừng
và làm chết cây hàng loạt. Đối với sản xuất lâm nghiệp, đây là loại thiên tai tồi
tệ nhất, xảy ra ngày càng nghiêm trọng hơn, với tần suất và quy mô ngày càng
lớn hơn, gây nhiều thiệt hại và kéo dài dai dẳng nhất.
Ở nước ta, hạn hán xảy ra ở rất nhiều nơi với những thiệt hại ngày càng
lớn hơn. Hạn hán và nắng nóng đã gây ra cháy rừng. Có thể kế ra đây một số
đợt hạn hán nghiêm trọng nhất. Đó là đợt hạn hán 1997-1998. Riêng 6 tháng
đầu năm 1998 có 60 vụ cháy rừng ở Đồng Nai (làm mất 1.200 ha) và ở Đắc Lắc
(làm mất 316 ha). Đợt khô hạn từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1998 đã làm 11.370
ha rừng bị cháy. Theo ước tính, thiệt hại tổng cộng trong cả nước lên tới trên
5.000 tỷ đồng.Cháy rừng đã làm huỷ hoại nhiều cánh rừng trên đất nước.
Khoảng 5 triệu ha rừng bị liệt vào loại dễ cháy ở bất cứ mùa nào trong năm.
Trong số diện tích rừng hiện có, 56% dễ bị cháy trong mùa khô. Mỗi đe doạ
cháy rừng lớn nhất là rừng thông ở vùng cao nguyên Trung Bộ và rừng tràm ở
châu thổ sông Mê Công. Trong mùa khô 1997-1998, do thời tiết khô nóng đã có
1.681 vụ cháy rừng trên toàn quốc làm mất khoảng 19.819 ha, trong đó có
6.293 ha rừng tự nhiên, 7.888 ha rừng trồng, 494 ha rừng tre nứa và 5.123 ha
cỏ và cây bụi. Ở Quảng Ninh và Lâm Đồng, các vụ cháy rừng thông đã làm tê
liệt nhiều nhà máy sản xuất nhựa thông (Cục Kiểm Lâm, 1999). Mực nước tại
một số điểm đồng bằng sông Cửu Long trong đợt hạn này đã hạ thấp tới mức –
0,3 tới – 0,4 m. Trong tất cả các vụ cháy rừng, vụ cháy rừng U Minh Thượng
năm 2002 là vụ cháy rừng nghiêm trọng nhất, đã phá huỷ trên 5.000 ha rừng
ngập mặn có giá trị đa dạng sinh học cao, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng. Các
loại rừng bị cháy thường là các loại rừng non mới tái sinh, rừng trồng từ 3-5
tuổi, trảng cỏ và cây bụi. Gần đây nhất là đợt hán hán kéo dài 9 tháng liền năm
2004-2005 đã gây tổn thất nhiều cho sản xuất lâm nghiệp ở miền Trung và Tây
Nguyên.
Bão: Không có sự gia tăng số lượng bão đổ bộ vào Việt Nam trong 10
năm gần đây nhưng sự bất thường và phức tạp của các cơn bão có thể quan sát
được một cách rõ ràng. Chẳng hạn cơn bão Linda được hình thành và đổ bộ vào
miền Nam rất nhanh cuối năm 1997 là cơn bão thuộc loại này, xảy ra duy nhất
chỉ một lần trong suốt một thế kỷ. Mặc dù về quy mô đổ bộ vào miền Nam
trong thế kỷ 20, Lin da chỉ xếp hàng thứ hai, nhưng về cường độ lại là cơn bão
mạnh hơn rất nhiều lần so với cơn bão hồi đầu thế kỷ, và gây ra nhiều thiệt hại
nghiêm trọng. Các cơn bão liên tục đổ bộ vào miền Trung đã gây ra lụt lội, xói
lở đất nghiêm trọng ở các tỉnh ven biển miền Trung, gây ra triều cường và hiện
Hội thảo lần 1: "Xây dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm
nhẹ tác động do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, ngày 14-15/8/2008
6
tượng nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền, ảnh hưởng tới sản xuất lâm nghiệp
tại địa bàn. Gần đây, bão có xu hướng tiến sâu về phía Nam.
Lũ lụt: Ở Việt Nam, trong vòng 10 năm gần đây, hầu như hàng năm đều
có lũ lụt nghiêm trọng xảy ra. Nhiều trận lụt lớn xảy ra tại miền Trung và gây
ra tổn thất nghiêm trọng cho sản xuất ở vùng này. Trận lụt tháng 11 năm 1999
là trận lụt ghi nhiều kỷ lục của một giai đoạn vài chục năm, đặc biệt là về lượng
mưa. Trong vòng 245 giờ, lượng mưa ở Huế đạt 1384 mm, là lượng mưa cao
nhất thống kê được trong lịch sử ngành thuỷ văn ở Việt Nam và chỉ đứng thứ
hai sau kỷ lục thế giới là 1870 mm đo được ở Đảo Reunion ở Thái Bình Dương
vào năm 1952. Ở đồng bằng sông Cửu Long, lụt lội xảy ra thường xuyên hơn,
đặc biệt trận lũ kéo dài trong năm 2000 là trận lũ lớn nhất trong vòng 70 năm
qua. Lũ lụt cũng gây ra trượt lở đất ở vùng ven biển dẫn tới việc biển tiến sâu
vào đất liền và gây ra hiện tượng nhiễm mặn ở vùng nội đồng. Lũ lụt cũng là
loại thiên tai gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống đồng
bào tại vùng nông thôn.
Lũ quét và lũ ống: Loại thiên tai này kéo theo hiện tượng trượt lở đất, phá
huỷ rừng, xói mòn đất và gây ra những thiệt hại về kinh tế - xã hội ở nhiều khu
vực, đặc biệt là vùng nông thôn miền núi phía Bắc. Sự xói mòn xảy ra mạnh
nhất ở độ cao 1000-2000 m và thường gây ra trượt lở đất, nứt đất khi có các
trận mưa rào lớn. Do xói mòn mạnh, một lượng lớn các chất dinh dưỡng như
nitơ, kali, canxi, magiê cùng các loài vi sinh vật bị cuốn rửa trôi. Đất dần dần
mất khả năng tích nước và trở nên rắn, chặt hơn, gây ra quá trình hoang mạc
hóa.
2. Những nỗ lực nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trong
lâm nghiệp
Nhận thức được vai trò quan trọng của lâm nghiệp đối với việc giảm thiểu và
thích ứng với biến đổi khí hậu, Cục Lâm nghiệp đã và đang phối hợp cùng các bên
liên quan xây dựng Kế hoạch hành động giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí
hậu ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó chú trọng vào việc bảo tồn
và phát triển bền vững hệ thống rừng tự nhiên; thiết lập và quản lý bền vững hệ
thống rừng phòng hộ ven biển, bao gồm cả rừng ngập mặn; xây dựng và triển khai
thí điểm các dự án về cơ chế phát triển sạch trong lâm nghiệp; tăng cường các sáng
kiến quản lý đất lâm nghiệp bền vững gắn với giảm nghèo; lồng ghép các vấn đề
thực thi ba công ước Rio của Liên hợp quốc là Công ước khung về biến đổi khí hậu,
Công ước đa dạng sinh học và Công ước chống hoang mạc hóa.
Đồng thời tăng cường kêu gọi sự ủng hộ về tài chính và kỹ thuật của các tổ
chức quốc tế, như Ngân hàng thế giới, Quỹ Ủy t