Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã ảnh hưởng không ít đến tính cố kết của khối cộng đồng dân cư ở đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL); người dân đã di cư vì sinh kế kéo theo sự thay đổi trong việc tham gia vào các lễ
hội văn hóa truyền thống của địa phương. Tuy nhiên, sự đóng góp của những người di dân đến văn hóa địa
phương nên việc tổ chức thực hiện các sinh hoạt văn hóa truyền thống cũng được duy trì.
4 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của biến đổi khí hậu tới sự di cư và đời sống văn hóa truyền thống ở Đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 119
TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI SỰ DI CƯ VÀ
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã ảnh hưởng không ít đến tính cố kết của khối cộng đồng dân cư ở đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL); người dân đã di cư vì sinh kế kéo theo sự thay đổi trong việc tham gia vào các lễ
hội văn hóa truyền thống của địa phương. Tuy nhiên, sự đóng góp của những người di dân đến văn hóa địa
phương nên việc tổ chức thực hiện các sinh hoạt văn hóa truyền thống cũng được duy trì.
Từ khóa: BĐKH, sinh kế, sự di cư, văn hóa truyền thống,ĐBSCL.
Nhận bài: 23/2/2021; Sửa chữa: 11/3/2021; Duyệt đăng: 17/3/2021.
1. Đặt vấn đề
BĐKH là một trong những thách thức lớn đối với
nhân loại trong thế kỷ 21 và được xem là một vấn nạn
toàn cầu. Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới
cho thấy Việt Nam nằm trong số ít quốc gia chịu ảnh
hưởng lớn nhất do BĐKH mà ĐBSCL là một trong ba
đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất trước
thảm họa thiên tai. BĐKH làm tăng khả năng bị tổn
thương và tạo nguy cơ làm chậm hoặc đảo ngược quá
trình phát triển. “Nhiều báo cáo và dẫn chứng khoa học
đã chỉ ra rằng, Việt Nam, đặc biệt là vùng ĐBSCL, là
một trong những “điểm nóng” về BĐKH và nước biển
dâng trên thế giới, gây nên nhiều tổn thương cho sinh
kế người dân”[4].
Theo kịch bản BĐKH và nước biển dâng cho Việt
Nam, Bộ TN&MT công bố năm 2016 cho thấy, ĐBSCL
là khu vực có nguy cơ ngập rất cao. Nếu mực nước biển
dâng 100 cm, sẽ có khoảng 38,9% diện tích có nguy cơ
bị ngập. Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là
Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau
(57,69%) [1].
BĐKH tác động đến các nhóm xã hội ở các khía
cạnh khác nhau, trong đó có vấn đề di cư. Di cư trong
nước là chủ yếu và ở đây được tính bao gồm cả tái định
cư. Theo một vài nghiên cứu gần đây, cứ mỗi năm
ĐBSCL mất đi khoảng hơn 1 triệu người dân phải di
dời nơi sinh sống do hạn hán, xói mòn vùng biển hay
ngập mặn. Theo báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
công bố ngày 9/1/2018, những tác động của BĐKH có
thể ảnh hưởng đến 12% dân số nước này vào năm 2021.
Từ năm 2008 - 2015, người dân di cư để lánh nạn do
hậu quả của thiên tai (IDMC, 2016); tuy nhiên, vẫn có
những người đã buộc phải di cư do chính những biện
pháp được thực hiện nhằm bảo vệ họ trước những tác
động của BĐKH. Một hành lang di cư (chủ yếu là di cư
trong nước) đã được hình thành nối vùng ĐBSCL và
các thành phố như Cần Thơ và đặc biệt là TP. Hồ Chí
Minh. Trong đó di cư nội vùng (tái định cư) là luồng di
cư lớn nhất trong khi di cư nội địa giữa các vùng chiếm
tỷ trọng thấp hơn [2]. Đồng thời, chính sách xuất khẩu
nhân công lao động theo hợp đồng tạm thời (từ vài
tháng đến vài năm) - bao gồm cả hợp pháp và không
hợp pháp - cũng ngày càng trở nên nhiều và phổ biến
hơn ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung.
Trong đó, vùng nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực
di cư chính. Di cư theo thời vụ hoặc di cư lâu dài nhằm
mục đích cải thiện sinh kế cá nhân hoặc gửi tiền về hỗ
trợ gia đình và cộng đồng ở quê nhà vì suy thoái môi
trường và BĐKH [3].
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm điều tra về tác
động của BĐKH có ảnh hưởng đến khối cộng đồng dân
cư, sự di cư, đời sống văn hóa truyền thống ở quy mô
hộ gia đình.Với các tôn giáo - tín ngưỡng khác nhau
của người dân địa phương, cuộc điều tra này giúp nhận
thấy cách người dân nhận thức và thích nghi với tình
trạng BĐKH, đang tác động từ đời sống vật chất đến
tinh thần của họ trong cộng đồng. Người được phỏng
1 Trung tâm Nghiên cứu Thích ứng BĐKH và Hỗ trợ Phát triển Cộng đồng, Đại học Trà Vinh
Nguyễn Thị Thanh Nhiện
Lâm Thị Thu Thảo
Trương Văn Hiểu
(1)
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021120
vấn hiểu hoặc được cắt nghĩa rõ ràng về các khái niệm
sử dụng trong cuộc phỏng vấn. Cán bộ chính quyền địa
phương không tham gia vào cuộc điều tra để đảm bảo
tính khách quan.
2. Đối tượng và phương pháp khảo sát
2.1. Xác định khối cộng đồng dân cư được lựa chọn
tiêu biểu trong nghiên cứu
Dựa vào đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội của ĐBSCL,
các cộng đồng dân cư chính như người Việt, Hoa, Chăm
và Khmer chiếm số lượng lớn tại các tỉnh được khảo sát
trong nghiên cứu này.
Các địa phương ven biển chịu ảnh hưởng của nước
biển dâng, ngập mặn, triều cường, hạn hán, xói lở được
quan tâm trong thực hiện khảo sát. Đồng thời, người
dân ở khu vực khảo sát có đời sống văn hóa tâm linh tín
ngưỡng đa dạng theo văn hóa đặc điểm lịch sử, kinh tế -
xã hội khu vực như: Mẹ Quan Âm Nam Hải, chùa (người
Việt và Khmer), đình, nhà thờ người Chăm, nhà thờ Công
giáo, miếu thờ bà chúa xứ
2.2. Đối tượng của cuộc khảo sát
Người dân di cư trong bối cảnh BĐKH diễn ra và nhiều
yếu tố khác tác động như sinh kế bị giảm hoặc mất, quy
hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng của Chính phủTrong
phạm vi của nghiên cứu này, phỏng vấn được thực hiện
năm 2019 trong phạm vi các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Bạc
Liêu, Cà Mau, An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang với tổng
số phiếu là 320 phiếu. Quy mô mẫu được phân bổ theo
khu vực có đồng bào đại diện nhóm dân tộc Kinh, Hoa,
Khmer, Chăm có sự di cư với sinh hoạt văn hóa cộng đồng
truyền thống đặc trưng, đồng thời cũng là khu vực có
người dân chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của BĐKH.
Ngoài ra, đặc điểm chung của người dân sống trong
các khu vực này là cùng chịu chung tác động của thiên tai
và BĐKH, nhưng có hoàn cảnh kinh tế khác nhau.
2.3. Thiết kế phiếu khảo sát
Phiếu điều tra được thực hiện thiết kế có nội dung
nhằm thu thập các thông tin sau:
Phần 1: Thông tin cá nhân của chủ hộ/người được
điều tra, thông tin về thời gian hộ đã cư trú tại địa phương;
thông tin về các thành viên của hộ: Mối quan hệ với chủ
hộ, giới tính, tháng năm sinh theo dương lịch và tuổi tròn,
trình độ học vấn và một số câu hỏi khác. Phần này nhằm
xác định các thành viên hộ có phải là người di cư hay là
người không di cư (bản xứ);
Phần 2: Thông tin về số lượng nhân khẩu trong gia
đình trong và ngoài độ tuổi lao động, số lượng nhân khẩu
tăng hay giảm trong thời gian gần đây, nơi di cư đến và
nguyên nhân di cư. Điều kiện sinh kế của hộ là gì, có chịu
ảnh hưởng của BĐKH hay không hay chịu ảnh hưởng
gián tiếp từ quy hoạch ở địa phương, thu nhập hàng năm.
Phần này nhằm xác định các thành viên hộ là người di cư
ở độ tuổi và trình độ nào, ước lượng lý do di cư.
Phần 3: Thông tin về trình độ văn hóa và tôn giáo, tập
tục thờ cúng của gia đình ở địa phương, sự đóng góp của
người di cư trong phong tục thờ cúng tín ngưỡng ở địa
phương; các nhận định của chủ hộ về hình thức và quy
mô các lễ hội văn hóa tâm linh - tín ngưỡng tôn giáo ở địa
phương hiện nay có thay đổi gì so với trước kia; sự hiểu
biết của người dân ở chính sách hỗ trợ của nhà nước trong
việc duy trì các hoạt động văn hóa tâm linh - tín ngưỡng
tôn giáo ở địa phương hiện nay.
2.4. Xử lý thông tin phiếu điều tra
Các số liệu được nhập và xử lý qua bảng tính Microsoft
Excel 2010, được lập bảng và xử lý theo địa phương (tỉnh)
để xếp hạng. Số phiếu được đưa vào xử lý là 320 phiếu.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Điều kiện sinh kế của người dân trong khảo sát
Theo điều kiện địa lý tự nhiên của từng địa phương
thì các hộ dân tham gia sinh kế khác nhau. Mỗi hộ có
thể tham gia nhiều ngành nghề khác nhau để đảm bảo
sinh kế đặc điểm chung của người dân sống trong
các khu vực trong khảo sát này là cùng chịu chung tác
động của thiên tai và BĐKH, nhưng hoàn cảnh kinh tế
khác nhau.
Bảng 1. Thống kê nghề theo sinh kế của hộ gia đình ở các địa phương được khảo sát
Đơn vị tính: hộ
Trà Vinh Bến Tre Bạc Liêu An Giang Kiên Giang Cà Mau Tiền Giang
Làm lúa 10 2 2 0 16 4 9
Nuôi trồng thủy sản 22 4 8 0 9 42 0
Chăn nuôi gia súc, gia cầm 15 6 3 8 3 4 5
Làm thuê, lao động đơn giản 7 0 4 14 7 4 2
Làm nghề tại nhà 5 2 0 11 1 0 1
Trồng trọt hoa màu 40 4 8 24 5 3 12
Đánh bắt thủy hải sản 12 0 4 0 0 0 0
Mua bán nhỏ 25 3 15 10 6 4 6
Khác 7 5 1 0 14 8 11
Tổng số hộ khảo sát 84 21 29 32 63 48 43
Ghi chú: Do câu hỏi có nhiều phương án trả lời, nên tổng các câu trả lời không bằng tổng số hộ khảo sát
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 121
Kết quả khảo sát cho thấy, điều kiện sinh kế của
các hộ tại các địa phương khá đa dạng (Bảng 1), như ở
Trà Vinh, An Giang và Tiền giang thì nghề trồng trọt
chiếm đa số, trong khi đó, tại Bến Tre thì nghề chăn
nuôi gia súc, gia cầm, hay tại Bạc Liêu thì phần lớn
điều kiện sinh kế của các hộ là nghề mua bán nhỏ. Tại
Kiên Giang, nghề làm lúa và tại Cà Mau thì sinh kế chủ
yếu là nghề nuôi trồng thủy sản.
3.2. Ảnh hưởng của BĐKH đến di dân và sinh
hoạt văn hóa cộng đồng
Người dân di cư trong bối cảnh BĐKH diễn ra và
nhiều yếu tố khác tác động như sinh kế bị giảm hoặc
mất, quy hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng của Chính
phủ các hộ gia đình có thể không di dân hoàn toàn
mà chỉ có người trong độ tuổi lao động đi tìm sinh kế
hoặc các hộ có điều kiện nhà ở và kinh tế tốt hơn thì
vẫn có đủ khả năng bám trụ. Sự di cư ở đây được hiểu
là sự di chuyển từ vùng này sang vùng khác có thể là
đi đến các địa phương trong cùng một tỉnh (nông thôn
- nông thôn) hay đi từ nông thôn lên thành thị hay ra
khỏi phạm vi quốc gia nhằm mục đích tìm kiếm, thay
đổi sinh kế.
Tuy một số trường hợp người dân vẫn chưa nghĩ
rằng nguyên nhân của sự di cư của người thân trong
gia đình là do BĐKH, mà là do điều kiện kinh tế trở
nên khó khăn; nhưng người dân có hợp tác tích cực
với cán bộ điều tra khảo sát. Theo đó, nhận định của
người dân về sự ảnh hưởng của BĐKH, của sinh kế
kéo theo di dân và các sinh hoạt văn hóa truyền thống
trong cộng đồng trong việc ảnh hưởng sinh kế thể hiện
ở bảng 2.
Bảng 2 cho thấy, người dân được phỏng vấn ở các
tỉnh Trà Vinh, Bạc Liêu, An Giang ý thức được sự tác
động của BĐKH, trong đó, tỷ lệ cao nhất ở An Giang.
BĐKH và những thay đổi bất thường của thời tiết có
ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế và thu nhập của người
dân. Người dân ở các tỉnh Bến Tre, Kiên Giang, Cà
Mau và Tiền Giang cũng nhận thấy được sự ảnh hưởng
của BĐKH, nhưng họ thay đổi điều kiện sống và sinh
kế theo chiều hướng thuận lợi như “sống chung với
BĐKH” nên sinh kế không bị ảnh hưởng nhiều.
Kết quả khảo sát nhận định của người dân về sinh kế
ảnh hưởng đến di dân cho thấy các tỉnh Bạc Liêu và An
Giang, Trà Vinh có tỷ lệ cao tương ứng 100%, 100% và
72,6% . Hầu như các hộ đều có người di dân về các khu
công nghiệp ở trong tỉnh hay đi các tỉnh khác; có người
tham gia xuất khẩu lao động; có người di dân do kết
hôn với Việt kiều hay người nước ngoài, nhưng số đó
chiếm tỷ lệ ít. Riêng sự di dân trong nội vùng, nội tỉnh,
giữa các tỉnh trong vùng, với mục đích thay đổi sinh kế
thì không được người dân xem xét như là di dân tại các
trường hợp ở Cà Mau và Kiên Giang, Tiền Giang, Bến
Tre người dân có thể di chuyển giữa các địa bàn khu vực
để thay đổi sinh kế.
Có thể thấy, hoạt động tín ngưỡng của người dân
phần lớn ở chùa, nhà thờ (Công giáo và đạo Hồi) còn
theo đặc trưng nghề nghiệp và khu vực sinh sống có
các tục tín ngưỡng Miếu bà chúa xứ, chùa Ông, lễ hội
Nghinh ông, đình thần Sự đa dạng trong văn hóa tín
ngưỡng thể hiện rất rõ đặc biệt là bà con ở vùng ven
duyên hải. Từ việc di dân để thay đổi sinh kế, người dân
cũng có thay đổi theo văn hóa thôn xóm, tập tục thờ
cúng, văn hóa tín ngưỡng ở địa phương. Việc thay đổi
sinh kế ảnh hưởng đến các sinh hoạt văn hóa trong khối
cộng đồng dân cư theo nhiều chiều hướng khác nhau.
Người dân vì lý do mưu sinh có thể không tham gia được
các lễ hội tâm linh ở địa phương mình nhưng có đóng
góp cho lễ hội qua người thân còn ở lại địa phương.
Đồng thời, việc di chuyển cũng giúp họ biết đến văn hóa
tín ngưỡng ở địa phương họ đến làm việc. Kéo theo các
kết quả về sự di dân, sự thay đổi nhiều trong sinh hoạt
văn hóa cộng đồng ở Bạc Liêu, An Giang chiếm tỷ lệ cao
hơn các tỉnh còn lại trong các địa phương được điều tra.
Tuy nhiên, có thể thấy sự thay đổi tín ngưỡng,
phong tục tập quán thờ cúng thể hiện rõ ở tất cả các địa
phương. Cao nhất là Bạc Liêu với tỷ lệ 69,0%, tiếp theo
là An Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Tiền Giang và
Kiên Giang. Hầu hết thông tin cung cấp là người dân
chuyển đổi sinh kế chủ yếu là đi làm việc ở các thành
phố lớn và khu công nghiệp vùng ven thành phố, điển
hình là TP. Hồ Chí Minh và các thành phố lân cận có
khu công nghiệp.
Bảng 2. Nhận định của người dân về sự ảnh hưởng của BĐKH đến di dân và sinh hoạt văn hóa truyền thống.
Đơn vị tính: %
Trà Vinh Bến Tre Bạc Liêu An Giang Kiên
Giang
Cà Mau Tiền
Giang
Nhận định của người dân về ảnh
hưởng của BĐKH
78,6 42,9 96,6 100 31,7 56,3 51,2
Nhận địnhcủa người dân về sinh kế
ảnh hưởng đến di dân
72,6 0 100 100 3,2 0 7,0
Nhận định của người dân về di dân
ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa
cộng đồng
52,4 61,9 69,0 65,6 25,4 52,1 48,8
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021122
4. Kết luận
Theo kết quả phỏng vấn chung, người dân nhận
thấy được các yếu tố thay đổi từ thời tiết, điều kiện
canh tác, nhưng một số người dân không khẳng định
là do BĐKH mà họ di dân. Người dân chỉ xác định vì
nhu cầu học tập, hoặc đời sống nên họ rời địa phương
này sang địa phương khác để tìm kiếm sinh kế vì
trong hộ gia đình vẫn còn người ở lại địa phương.
Người dân nhận định các lễ hội trong sinh hoạt văn
hóa địa phương thay đổi theo chiều hướng tích cực
bởi các lý do:
- Người dân đi làm xa hoặc dân di cư ít có điều kiện
để trở về địa phương đúng ngày diễn ra lễ hội văn hóa
ở địa phương, nhưng việc di cư đi các vùng khác đã
thay đổi điều kiện kinh tế của các hộ; người dân có thu
nhập hơn nên họ đóng góp cho các hoạt động văn hóa
tín ngưỡng cộng đồng ở quê hương nhiều hơn. Người
di cư đã gửi tiền về cho người còn lại ở địa phương và
đóng góp vào các lễ hội tâm linh truyền thống.
- Mặc dù dân địa phương đã di cư đi, giảm số lượng
người ở địa phương, nhưng người dân có đóng góp
ngân sách về cho người còn lại. Đồng thời, Nhà nước
có quan tâm đến các tín ngưỡng văn hóa tâm linh ở
địa phương nhiều hơn thông qua việc trùng tu các
đền đài, chùa miếu, đường sá. Từ đó thu hút khách du
lịch nhiều hơn, tạo điều kiện cho người dân từ các địa
phương khác đến tham dự đông. Do đó, các văn hóa tín
ngưỡng ở địa phương vẫn được duy trì■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016).Kịch bản BĐKH, nước
biển dâng cho Việt Nam, Nxb. Tài nguyên môi trường và bản
đồ Việt Nam, trang 78.
2. https://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20180219-dong-bang-cuu-
long-di-cu-bien-doi-khi-hau (ngày 16/3/2019)
3. Đặng Nguyên Anh, Irene Leonardelli, Ana Alicia Dipierri.
2016. Đánh giá bằng chứng: di cư, môi trường, và biến đổi khí
hậu tại Việt Nam. Tổ chức Di cư Quốc tế IOM.(21.40.45.57)
4. Peter Chaudhry and Greet Ruysschaert (2008). Climate
Change & Human Development in Vietnam: A case study
for the Human Development Report 2007/2008. Oxfam and
UNDP.
IMPACTS OF CLIMATE CHANGE ON MIGRATION AND TRADITIONAL
CULTURAL LIFE IN MEKONG DELTA
Nguyen Thi Thanh Nhien, Lam Thi Thu Thao, Truong Van Hieu
Center for climate change adaptation research and community development support(CRCS)
ABSTRACT
Climate change in the Mekong Delta has significantly affected the cohesion of the residential community,
which leads the decline in family size and change of traditional lifestyle; Due to hardship in earning for a living,
no longer do people join in traditional cultural festivals of the locality as they did in the past. However, the
contribution of migrants on the local culture festivals, so the traditional cultural activities are also maintaining.
Key words: Climate change, livehood, migration, traditional culture, the Mekong Delta region.