Nghiên cứu này tổng quan quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) ở Việt Nam, tập trung vào giai đoạn 2001- 2015. Sử
dụng số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, thông qua mô hình Q
của Tobin, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, hoạt động cổ phần hoá có
tác động tích cực đến hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp
được tư nhân hoá hoàn toàn hoặc nhà nước không giữ cổ phần chi
phối. Nghiên cứu cũng cho thấy, việc đẩy nhanh quá trình cổ phần
hoá DNNN trong giai đoạn 2012- 2015 không làm cho các doanh
nghiệp mà nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối có hiệu quả sử dụng
vốn cao hơn so với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Từ khoá: hiệu quả sử dụng vốn, cổ phần hoá, doanh nghiệp nhà
nước, Q Tobin
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của cổ phần hoá đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có nguồn gốc nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 192- Tháng 5. 2018
Tác động của cổ phần hoá đến hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp có nguồn
gốc nhà nước
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Hạ Thị Thu Thủy
Ngày nhận: 13/03/2018 Ngày nhận bản sửa: 09/04/2018 Ngày duyệt đăng: 23/05/2018
Nghiên cứu này tổng quan quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) ở Việt Nam, tập trung vào giai đoạn 2001- 2015. Sử
dụng số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, thông qua mô hình Q
của Tobin, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, hoạt động cổ phần hoá có
tác động tích cực đến hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp
được tư nhân hoá hoàn toàn hoặc nhà nước không giữ cổ phần chi
phối. Nghiên cứu cũng cho thấy, việc đẩy nhanh quá trình cổ phần
hoá DNNN trong giai đoạn 2012- 2015 không làm cho các doanh
nghiệp mà nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối có hiệu quả sử dụng
vốn cao hơn so với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Từ khoá: hiệu quả sử dụng vốn, cổ phần hoá, doanh nghiệp nhà
nước, Q Tobin
1. Mở đầu
Quá trình mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đã có tác động trực tiếp
đến khu vực DNNN khi lần đầu tiên phải đối
mặt với sức ép cạnh tranh quốc tế không chỉ
ở thị trường xuất khẩu mà ngay cả thị trường
trong nước. Mặt khác, theo các cam kết quốc tế,
Việt Nam phải dỡ bỏ dần các hàng rào bảo hộ
truyền thống như thuế quan, trợ cấp- các công
cụ hỗ trợ chủ yếu của chính sách công nghiệp
hướng tới các DNNN. Trong bối cảnh đó, chính
sách cổ phần hóa (CPH) DNNN được kỳ vọng
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của DNNN, giảm thiểu nguy cơ rủi ro tài
chính hoặc phá sản của doanh nghiệp (DN).
Trong những năm gần đây, khi tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam đang chậm lại,
một trong những nguyên nhân được nhắc đến là
việc sử dụng vốn kém hiệu quả cùng với những
thách thức chính sách trong việc cải cách khu
vực DNNN (IMF, 2013; OECD, 2013; VEPR,
2012). Hoạt động tái cấu trúc DNNN với trọng
tâm là CPH DNNN đã được tiến hành nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN,
nhưng khu vực DNNN vẫn hoạt động kém hiệu
quả (IMF, 2013; Báo cáo phát triển Việt Nam,
2012)
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
Đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo chỉ ra rằng,
DNNN sau CPH có hiệu quả hoạt động tốt hơn
trước CPH và Chính phủ cũng chủ trương thoái
vốn nhà nước tại những ngành mà nhà nước
không cần kiểm soát. Những nghiên cứu đã có
chủ yếu đánh giá tác động của chính sách CPH
đến các thay đổi gắn liền với thay đổi loại hình
sở hữu của DN như Quản trị DN, lao động,
khả năng tiếp cận vốn, khả năng mở rộng thị
trường mà chưa đánh giá tác động của việc
thay đổi sở hữu đến hiệu quả sử dụng vốn của
DN.
Nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu điều tra DN
mới nhất của Tổng cục Thống kê để xem xét tác
động của việc chuyển đổi loại hình sở hữu do
thực hiện chính sách CPH đến hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư và vốn vay của các DN có nguồn
gốc nhà nước.
2. Tổng quan nghiên cứu
Các nghiên cứu ngoài nước: Các kết quả
nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
của DN gắn với việc thay đổi loại hình sở hữu
thông qua quá trình CPH và tư nhân hoá DNNN
ở các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu chỉ ra
rằng, tư nhân hoá (privatisation) DNNN sẽ làm
tăng đáng kể năng suất lao động và lợi nhuận
(Shleifer, 1998; Claessens, Djankov, và Pohl,
1997; Earle và Telegdy, 2002; Brown và cộng
sự, 2006).
Một số nghiên cứu thực nghiệm dựa trên dữ
liệu cấp độ doanh nghiệp ở Trung Quốc cho
thấy vấn đề cơ cấu sở hữu có tác động đáng
kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Các học giả Trung Quốc có hai quan điểm trái
ngược về tác động của sở hữu nhà nước đến
hiệu quả DN:
(i) Quan điểm thứ nhất cho rằng hiệu quả hoạt
động DN có mối quan hệ ngược chiều hoặc
không có quan hệ với cổ phần nhà nước, trong
khi có mối quan hệ đồng chiều với cổ phần
không thuộc nhà nước (Xu và Wang, 1997).
Quan điểm này cho rằng năng suất lao động
sẽ giảm nếu vốn nhà nước tăng. Nghiên cứu
của Chen Yan (2009) về tác động của cơ cấu
sở hữu đến hành vi và hiệu quả đầu tư của DN
niêm yết nhà nước (sử dụng dữ liệu tài chính
của các DNNN Trung Quốc) cho thấy cơ cấu sở
hữu đóng vai trò quan trọng trong hành vi đầu
tư hiệu quả của các DN ngoài nhà nước. Pháp
nhân nhà nước sở hữu cổ phần kiểm soát đóng
vai trò quyết định trong hành vi đầu tư không
hiệu quả.
(ii) Quan điểm thứ hai cho rằng sở hữu nhà
nước có mối quan hệ đồng biến với hiệu quả
hoạt động của DN. Sun et al. (2002) cho rằng
mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và hiệu quả
hoạt động DN có hình chữ U ngược. Sự hỗ
trợ về chính trị sẽ hỗ trợ hiệu quả hoạt động
của DN, tuy nhiên, sự kiểm soát quá lớn từ
phía nhà nước là sự trở ngại cho hoạt động
kinh doanh. Ngược lại, một số nghiên cứu lại
chỉ ra mối quan hệ phi tuyến giữa sở hữu nhà
nước và hiệu quả hoạt động DN. Tian và Estrin
(2008) sử dụng bộ dữ liệu lớn về các DN niêm
yết của Trung Quốc giai đoạn 1994- 2004 đã
chỉ ra rằng, mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước
và hiệu quả hoạt động DN có hình chữ U; nhà
nước nắm giữ cổ phần có quan hệ ngược chiều
với hiệu quả hoạt động DN khi tiến đến một
ngưỡng nhất định, khi vượt qua ngưỡng này,
mối quan hệ là thuận chiều.
Các nghiên cứu trong nước: Đã có nhiều
nghiên cứu trong nước đánh giá hiệu quả hoạt
động của các DN CPH, trên nhiều khía cạnh
như: hiệu quả sử dụng vốn, mức độ đóng góp
vào tăng trưởng, đóng góp vào an sinh xã hội
(Ngô Quang Minh, 2001; CIEM, 2002; IMF,
2013; Phạm Đức Cường, 2013; Nguyễn Đình
Cung, 2014; O’Toole và cộng sự, 2015).
Nghiên cứu của CIEM (2002) được thực hiện
dựa trên cuộc điều tra khoảng 422 DN CPH ở
15 tỉnh, thành phố trên cả nước. Nghiên cứu
này đánh giá doanh thu, giá trị tăng thêm (VA),
lượng lao động tăng thêm, thu nhập của người
lao động, tổng tài sản, giá trị xuất khẩu và tỷ lệ
lợi nhuận/doanh thu của DN trong mẫu điều tra.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng CPH về cơ bản
có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của DN. Tuy nhiên, nghiên cứu
này chỉ dựa trên số liệu điều tra 1 năm và được
tiến hành đã lâu (năm 2001).
Nghiên cứu của Trương và cộng sự (2006) lại
sử dụng mẫu 121 DN có nguồn gốc nhà nước
và theo cách của Meggison và cộng sự (1994),
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
37Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
tác giả đã chỉ ra rằng sau CPH, các chỉ tiêu về
lợi nhuận, doanh thu, hiệu quả DN và thu nhập
của người lao động đều tăng. Cũng như nghiên
cứu của CIEM (2002), nghiên cứu này được
tiến hành ở thời điểm Việt Nam chưa gia nhập
WTO, sức ép hội nhập lên các DNNN chưa
thực sự cao như giai đoạn sau năm 2007.
Cùng sử dụng số liệu về các DNNN đã CPH
trong giai đoạn 2000- 2012, nghiên cứu của
Phạm Đức Cường (2013) và nghiên cứu của
O’Toole và cộng sự (2014) đã đánh giá hiệu
quả hoạt động tài chính và hiệu quả đầu tư của
các DN có nguồn gốc nhà nước. Nghiên cứu
của O’Toole và cộng sự (2014) sử dụng mô
hình gia tốc đầu tư theo cách của Wugle (2000)
để đánh giá hiệu quả đầu tư của DN có nguồn
gốc nhà nước và DN dân doanh và các tác giả
chỉ ra rằng các quyết định đầu tư của DNNN
không gắn với tăng trưởng doanh thu và cầu
thị trường. Kết quả nghiên cứu của Phạm Đức
Cường (2013) chỉ ra rằng CPH và tư nhân hoá
không đảm bảo tăng trưởng hiệu quả tài chính
cho DN sau khi so sánh các chỉ tiêu ROA, ROE
và chỉ tiêu về đòn bẩy tài chính, nợ ngắn hạn
của DN trước và sau CPH.
3. Khái quát quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Quá trình CPH DNNN ở nước ta được bắt đầu
với chương trình thử nghiệm vào năm 1992
bằng Quyết định số 202-CT ngày 08/6/1992,
Quyết định số 84/TTG ngày 04/4/1993 và được
đẩy mạnh từ năm 2002 đến nay.
Tháng 8/2001, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa IX họp về DNNN và ra nghị quyết
của Trung ương Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
Để triển khai Nghị quyết trung ương này, Thủ
tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 04/2002/CT-TTg
ngày 08/02/2002 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN,
và Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP
ngày 19/6/2002 về chuyển DNNN thành công
ty cổ phần. Các văn bản pháp lý này đã mở
ra một giai đoạn mới của CPH- giai đoạn tiến
hành ồ ạt.
Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước
thành công ty cổ phần, theo đó cả các công ty
thành viên của các tổng công ty nhà nước và
ngay cả chính tổng công ty nhà nước mà Nhà
nước không cần chi phối đều có thể trở thành
đối tượng CPH. Điểm mới quan trọng trong
Nghị định này là quy định việc bán cổ phần lần
đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá
tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nếu là
công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các trung
tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1
tỷ đồng, và tại công ty nếu công ty có số vốn
không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá
cổ phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty
nhà nước được đẩy vọt lên, đem lại nguồn thu
lớn cho Nhà nước.
Trong đợt đấu giá cổ phần của 5 DNNN được
CPH là Công ty cổ phần kỹ nghệ thực phẩm,
Nhà máy thiết bị bưu điện, Nhà máy thủy điện
Vĩnh Sơn- Sông Hinh, Công ty điện lực Khánh
Hòa, Công ty sữa Việt Nam, Nhà nước đã thu
vượt dự kiến 450 tỷ đồng. Ngoài ra, bán đấu
giá cổ phần của các DN CPH còn trở thành một
động lực cho sự phát triển của thị trường cổ
phiếu niêm yết ở Việt Nam. Trong số 30 công
ty niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) thời
điểm 31/10/2005, có 29 công ty là DNNN CPH.
Giai đoạn 2011- 2015, cơ chế chính sách về
CPH DNNN đã được Chính phủ ban hành đầy
đủ, đồng bộ và được điều chỉnh, bổ sung kịp
thời cho phù hợp với tình hình thực tiễn, giúp
hoàn thành kế hoạch CPH DN theo Đề án tái cơ
cấu giai đoạn 2011- 2015. Trong giai đoạn này,
Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định về CPH
DNNN (Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày
18/7/2011; Nghị định số 189/2013/NĐ-CP ngày
20/11/2013; Nghị định số 116/2015/NĐ-CP
ngày 11/11/2015) theo hướng thực hiện công
khai, minh bạch quá trình CPH, tăng cường sự
kiểm tra, giám sát của các đối tượng tham gia,
thực hiện nguyên tắc thị trường trong định giá
và bán đấu giá cổ phần, hướng dẫn cụ thể xử
lý dứt điểm các tồn tại về tài chính khi CPH,
hạn chế tối đa khả năng thất thoát vốn và tài
sản nhà nước trong quá trình CPH, thực hiện
phân cấp và quy định rõ trách nhiệm của các
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
đơn vị liên quan trong CPH. Về tỷ lệ cổ phần
Nhà nước nắm giữ tại DN sau CPH, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành 02 Quyết định về tiêu
chí, danh mục phân loại DNNN (Quyết định
số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04/3/2011 và Quyết
định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014) làm
cơ sở để các Bộ, ngành, địa phương, các DNNN
xây dựng phương án CPH DNNN theo hướng
đẩy mạnh CPH, giảm số lượng DNNN giữ cổ
phần chi phối, chỉ duy trì DNNN trong những
ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và
các lĩnh vực mà DN khu vực kinh tế tư nhân
không tham gia.
Có thể nhận thấy, việc CPH các DNNN trong
thời gian qua đang đi từ những ngành có tiềm
năng, lợi thế thị trường lớn, khả năng cạnh
tranh quốc tế tốt (da giày, thông tin và truyền
thông) tới những ngành có năng lực cạnh
tranh kém hơn và mang nhiều đặc thù của khu
vực công. Quá trình CPH cũng có xu hướng
đi từ các DNNN quy mô nhỏ tới các DN quy
mô vừa và lớn. Chức năng thực hiện CPH các
DNNN cũng được phân cấp cho các bộ, ngành,
địa phương, nơi trực tiếp quản lý DN.
Kết quả thực hiện CPH DNNN giai đoạn
2001- 2015
a. Thời kỳ từ 2001 đến 2007- giai đoạn bùng
nổ CPH
- Trong giai đoạn 2001- 2007 (CPH được 3.273
DN, chiếm 82% tổng số), đặc biệt là thời kỳ
2003- 2006 (CPH 2.649 DN, chiếm 66,3% tổng
số) được gọi là thời kỳ “bùng nổ” CPH với mức
bình quân hàng năm rất cao, phản ánh xu hướng
kinh tế thị trường tương đối rõ nét sau khi có
Luật DN (2005) và chuẩn bị cho việc mở cửa,
hội nhập sâu, rộng hơn khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cùng
với bùng nổ CPH là sự lớn mạnh của khu vực
ngoài nhà nước cả về thị phần và số lượng DN,
số lao động, lượng vốn, tiêu thụ; vừa khai thác
được các nguồn lực của xã hội, vừa phù hợp
với việc chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong
giai đoạn này, sự phát triển của thị trường
chứng khoán (TTCK) đã góp phần đẩy nhanh
tiến độ CPH DNNN. Do hàng hóa trên TTCK
còn khan hiếm, hầu như DNNN nào tiến hành
CPH lần đầu (IPO) vào thời kỳ này đều thành
công và thu được thặng dư lớn, thậm chí cả
những DN nhỏ không có tên tuổi và hoạt động
kém hiệu quả.
- Từ 2008 đến 2010, tiến độ thực hiện CPH
bị chậm lại, từ 2008 đến 2010, chỉ có 103 DN
được CPH, tức là tương đương với số DN được
CPH trong năm 2007 và thấp hơn nhiều lần so
với những năm trước đó. Đây hầu hết đều là các
DN có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng,
kinh doanh đa ngành, tài chính phức tạp.
b. Thời kỳ thứ hai từ năm 2011 đến năm 2015
Trong giai đoạn 2011- 2015 cả nước đã CPH
508 DN với tổng giá trị thực tế DN là 760.774
tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà
nước là 188.274 tỷ đồng, số liệu tương ứng năm
2016 là 24.379 tỷ đồng và 11.937 tỷ đồng (Hình
1).
Hình 1. Tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới & PTDN
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
4. Phương pháp luận đánh giá tác động của
CPH đến hiệu quả sử dụng vốn của DN
Sử dụng mô hình cấu trúc Q của Tobin để xem
xét tác động của việc chuyển đổi sở hữu do
CPH tới hiệu quả sử dụng vốn của các DN có
nguồn gốc nhà nước, theo cách của O’Toole
và cộng sự (2016), Chen và cộng sự (2011),
phương trình đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
của DN có nguồn gốc nhà nước bằng mô hình
Q của Tobin có dạng sau:
KE
it
= α0 + βQQit + θXit-1 + βowni + σQit×Pi +
γZ
jt
+ e
it
(a)
Trong đó:
KE
it
: Chỉ tiêu hiệu quả của DN;
Q
it
: ước lượng thực nghiệm của Tobin’s Q của
DN i ở năm t;
X
it-1
: Biến kiểm soát các đặc điểm của DN như:
ngành sản xuất kinh doanh (ngành công nghiệp
và ngành dịch vụ), quy mô DN (DN lớn, DN
nhỏ và vừa- DNNVV), đòn bẩy tài chính, tiếp
cận tín dụng thương mại;
Z
jt
: Bao gồm các biến kiểm soát ngành theo
thời gian: chỉ số HHI (Herfindahl Hirschman
Index) đo lường mức độ cạnh tranh của ngành;
StateMP- thị phần của DNNN trong ngành;
P
i
: là các biến giả (dummy) được sử dụng để
thay thế (proxy) cho các chính sách CPH;
own
i
: hoạt động CPH nói chung. Biến own
mang các giá trị: own = 1 nếu DNNN hoặc
DN cổ phần có vốn nhà nước không thực hiện
chuyển đổi loại hình sở hữu trong cả giai đoạn
nghiên cứu; own = 2 nếu DNNN chuyển thành
DN cổ phần nhà nước có >50% vốn; own =
3 nếu DNNN hoặc DN cổ phần nhà nước có
<50% vốn; own = 4 nếu DN cổ phần chuyển
thành tư nhân hóa hoàn toàn; own = 5 nếu
DNNN chuyển thành tư nhân hóa hoàn toàn.
σ: vector hệ số cho biết sự khác nhau của Q
giữa các nhóm DN do tác động của CPH; Hệ số
này cho biết việc CPH có làm tăng hiệu quả sử
dụng vốn của DN hay không.
a. Lựa chọn biến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn của DN được đo bằng
mối quan hệ giữa Q và các chỉ tiêu hiệu quả sử
dụng vốn của DN bao gồm: tăng trưởng vốn
đầu tư của DN, lợi nhuận/vốn vay và lợi nhuận/
vốn chủ sở hữu. Như vậy, phương trình (a)
được tách thành 3 phương trình sau:
+ Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
1 ⁄ K
it
= α
0
+ βQQit + θXit-1 + βowni + σQit×Pi +
γZ
jt
+ e
it
(1)
Ở phương trình (1), chỉ tiêu đo lường hiệu quả
sử dụng vốn của DN là tỷ lệ vốn đầu tư/tích
lũy vốn trong kỳ nghiên cứu. Nếu Q tỷ lệ thuận
với lợi nhuận kỳ vọng trên một đơn vị vốn tăng
thêm và cao hơn tỷ lệ vốn tích luỹ tăng thêm
(vốn đầu tư) thì DN hoạt động có hiệu quả.
Để xem xét tác động của của cổ phần hoá đến
hiệu quả hoạt động của DNNN, nghiên cứu so
sánh độ nhạy của Q tới hoạt động tăng vốn tích
luỹ giữa các nhóm DN với nhau. Nếu DN hoạt
động theo cơ chế thị trường và hoạt động tăng
vốn đầu tư của DN được thực hiện dựa trên sự
tính toán hiệu quả thì Q sẽ cao hơn so với DN
thực hiện tăng vốn đầu tư không vì mục tiêu lợi
nhuận.
+ Hiệu quả sử dụng vốn vay
RD
it
= α
0
+ βQQit + θXit-1 + βowni + σQit×Pi +
γZ
jt
+ e
it
(2)
Trong phương trình (2), hiệu quả sử dụng vốn
vay được xác định bằng lợi nhuận/vốn vay
trong kỳ (lợi tức vốn vay). Trong mô hình này,
nếu Q tỷ lệ thuận với lợi tức vốn vay thì DN
hoạt động có hiệu quả. Hệ số cho biết CPH có
làm tăng hiệu quả sử dụng vốn vay của DN hay
không.
+ Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu
ROE
it
= α
0
+ βQQit + θXit-1 + βowni + σQit×Pi +
γZ
jt
+ e
it
(3)
Phương trình (3) đo lường hiệu quả sử dụng
vốn chủ sở hữu của DN thông qua chỉ tiêu lợi
tức vốn chủ sở hữu (ROE = lợi nhuận/vốn chủ
sở hữu). Cũng tương tự như mô hình (1) và (2),
DN sử dụng vốn chủ sở hữu có hiệu quả khi Q
tỷ lệ thuận với ROE và do đó, tác giả kỳ vọng
hệ số σ của các DN sau CPH sẽ cao hơn nhóm
DNNN không thực hiện chuyển đổi loại hình sở
hữu trong kỳ nghiên cứu.
b. Lựa chọn biến chính sách
Kể từ khi bắt đầu thực hiện chương trình CPH
DNNN (từ năm 1990) đến nay, đã có nhiều văn
bản pháp quy được ban hành nhằm bổ sung,
hoàn thiện chính sách CPH DNNN. Sau khi
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
phân tích thực trạng tiến trình CPH DNNN và
số liệu hiện có, trong giai đoạn 2001-2015 có 3
chính sách quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
tiến trình CPH DNNN, cụ thể:
- Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển
DNNN thành công ty cổ phần. Cùng với việc
quy định các công ty thành viên và cả công ty
mẹ đều có thể là đối tượng CPH thì Nghị định
này đã quy định việc bán cổ phần lần đầu (IPO)
phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá.
- Năm 2007, Luật Chứng khoán chính thức có
hiệu lực.
- Năm 2011: Đề án tái cơ cấu DNNN giai đoạn
2011- 2015 và các Nghị định về việc công
khai, minh bạch quá trình CPH và hướng dẫn
xử lý các vấn đề còn tồn tại của quá trình CPH
DNNN.
Để xem xét tác động của chính sách CPH đến
hiệu quả sử dụng vốn của DN có nguồn gốc nhà
nước, biến chính sách được sử dụng trong mô
hình là các biến giả. Trong đó:
- Biến năm chuyển đổi: căn cứ vào 03 mốc thời
gian trên, biến năm chuyển đổi mang các giá
trị: năm chuyển đổi= 1 nếu DN không thực hiện
chuyển đổi loại hình sở hữu; năm chuyển đổi=
2 nếu DN thực hiện chuyển đổi loại hình sở hữu
trước năm 2005 (thời điểm Nghị định 187/2002/
NĐ-CP có hiệu lực); năm chuyển đổi= 3 nếu
DN thực hiện chuyển đổi loại hình sở hữu sau
năm 2005 và trước năm 2007 (thời điểm ban
hành Luật Chứng khoán); năm chuyển đổi= 4
nếu DN thực hiện chuyển đổi loại hình sở hữu
trong giai đoạn 2007- 2010 (trước khi có Đề án
tái cơ cấu DNNN); năm chuyển đổi= 5 nếu DN
thực hiện chuyển đổi loại hình sở hữu trong giai
đoạn 2011-2015.
- Biến chính sách t
i
đại diện cho 3 mốc chính
sách: Nghị định 187/2004/NĐ-CP (t1=0 trước
năm 2004 và t1=1 kể từ 2004); Luật Chứng
khoán 2007 (t2=0 trước 2007 và t2=1 kể từ
2007) và Đề án Tái cơ cấu DNNN (t3=0 trước
2011 và t3=1 kể từ 2011).
Khi tiến hành ước lượng mô hình (1), (2), (3), σ
của nhóm các DN thay đổi loại hình sở hữu do
CPH trong kỳ nghiên cứu được kỳ vọng sẽ cao
hơn so với khối DNNN và DN cổ phần có vốn
nhà nước không thay đổi loại hình sở hữu trong
kỳ nghiên cứu.
5. Số liệu và mẫu nghiên cứu
Hoạt động CPH DNNN được bắt đầu triển khai
từ năm 1990, và đến 31/12/2001 đã có 548
DNNN