Nghiên cứu này nhằm xác định các thành phần của định hướng thị trường tác động đến
kết quả kinh doanh và hiện trạng cũng như khả năng ứng dụng các thành phần tại các doanh
nghiệp ngành thương mại dịch vụ thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình nghiên cứu và thang đo
được hình thành trên cơ sở lý thuyết và dựa trên kết quả nghiên cứu định tính. Kết quả nghiên
cứu trên mẫu khảo sát 156 doanh nghiệp cho thấy 1. Hiện nay các doanh nghiệp thương mại
dịch vụ tại thành phố Hồ Chí Minh đang có mức độ định hướng thị trường khá & 2. Kết quả
nghiên cứu cũng xác nhận chỉ có 1 yếu tố của định hướng thị trường là: “ứng phó nhanh
nhạy” là có tác động dương đến kết quả kinh doanh. Các thành phần còn lại của định hướng
thị trường bao gồm: định hướng khách hàng; định hướng cạnh tranh và phối hợp chức năng có
tác động rất nhỏ và không có ý nghĩa thống kê đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
13 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 478 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của định hướng thị trường đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại dịch vụ tại TP. Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỊNH HƯỚNG THỊ TRƯỜNG ĐẾN
KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Phạm Xuân Lan*, Nguyễn Thị Hoàng Mai **
ABSTRACT
Nghiên cứu này nhằm xác định các thành phần của định hướng thị trường tác động đến
kết quả kinh doanh và hiện trạng cũng như khả năng ứng dụng các thành phần tại các doanh
nghiệp ngành thương mại dịch vụ thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình nghiên cứu và thang đo
được hình thành trên cơ sở lý thuyết và dựa trên kết quả nghiên cứu định tính. Kết quả nghiên
cứu trên mẫu khảo sát 156 doanh nghiệp cho thấy 1. Hiện nay các doanh nghiệp thương mại
dịch vụ tại thành phố Hồ Chí Minh đang có mức độ định hướng thị trường khá & 2. Kết quả
nghiên cứu cũng xác nhận chỉ có 1 yếu tố của định hướng thị trường là: “ứng phó nhanh
nhạy” là có tác động dương đến kết quả kinh doanh. Các thành phần còn lại của định hướng
thị trường bao gồm: định hướng khách hàng; định hướng cạnh tranh và phối hợp chức năng có
tác động rất nhỏ và không có ý nghĩa thống kê đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Từ khóa: Định hướng thị trường, thương mại dịch vụ, kết quả kinh doanh
THE EFFECT OF MARKET ORIENTATION TO BUSINESS RESULTS FROM
SERVICE AND BUSINESS COMPANIES IN HCMC
ABSTRACT
This research is to definite the effect of market orientation components to the business result,
actual state and skill of applied components from Service and Business Companies in HCMC. The
research model and measurement are based on theory and research result and qualitative research
results. The investigation on 156 Service and Business Companies in HCMC shows that the first is
they currently have market orientation measure which is quite good. The second is the definition
which there is a factor of market orientation is “take action quickly” to the effect of business result.
Of the other components of the market orientation include: the direction of customers; orientation
competence; set functionality to take action very small and no meaningful statistics up to the
business result of Service and Business Companies in HCMC.
Keywords: market orientation, business service, business results
* PGS,TS, Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học kinh tế TP.HCM. Email: lanqtkd@ueh.edu.vn.
** ThS. Ngân hàng TMCP Á Châu. Email: hoangmai.acb@gmail.com.
65
Tác động của định hướng . . .
1. GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt như
hiện nay việc tìm kiếm các giải pháp nhằm
nâng cao kết quả kinh doanh là mối quan tâm
của nhiều nhà quản lý và chủ các doanh nghiệp.
Vấn đề này cũng đã được nhiều nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực quản trị kinh doanh quan
tâm, chẳng hạn như: Baker và Sinkula (1999)
nghiên cứu hai nhân tố định hướng thị trường
và định hướng học hỏi tổ chức; Barret (2005)
nghiên cứu bốn nhân tố định hướng thị trường,
định hướng kinh doanh, sự linh hoạt trong tổ
chức và định hướng học hỏi tổ chức, nhưng
cũng có nhiều nghiên cứu chỉ tiếp cận một nhân
tố. Trong đó, định hướng thị trường là nhân tố
được khá nhiều nghiên cứu quan tâm. Tại Việt
Nam, cũng đã từng có rất nhiều nghiên cứu về
vấn đề này đối với doanh nghiệp nói chung (Lê
Nguyễn Hậu và Phạm Ngọc Thúy, 2007) và
trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng như ngành
du lịch (Lại Văn Tài và Hứa Kiều Phương Mai,
2007), ngành cơ khí (Bùi Huy Hải Bích và Võ
Thị Thanh Nhàn, 2007). Đặc biệt là nghiên
cứu của Lê Nguyễn Hậu và Phạm Ngọc Thúy
(2007) đã cho thấy được nguyên lý quản lý
theo định hướng thị trường là phù hợp với các
doanh nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh, việc vận
dụng tốt các nguyên lý này sẽ mang lại kết quả
kinh doanh tốt cho doanh nghiệp. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy hiện nay nhiều doanh nghiệp
vẫn chưa thực sự hiểu đúng về các nội dung
của định hướng thị trường và chưa có khả năng
ứng dụng tốt nhân tố này để cải thiện kết quả
kinh doanh.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH
HƯỚNG THỊ TRƯỜNG VÀ KẾT QUẢ
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Định hướng thị trường
Về mặt lý thuyết, thuật ngữ định hướng
thị trường (Market Orientation) được biết đến
đầu tiên ở các nước phát triển từ những năm
1957-1960 (Kohli và Jaworski, 1990). Đến
những năm 1990, tư tưởng về định hướng thị
trường mới được nghiên cứu sâu và ứng dụng
rộng rãi tại các nước trên thế giới. Sự phát triển
mạnh mẽ của lý thuyết này là nhờ vào những
đóng góp quan trọng của các nhà nghiên cứu
Kohli và Jaworski, Slater và Narver.
Tiếp cận từ quan điểm hành vi, Kohli và
Jaworski (1990) định nghĩa định hướng thị
trường như là một quá trình tạo lập và thu thập
thông tin về các nhu cầu hiện tại và tương lai
của khách hàng, về thị trường đồng thời phổ
biến các thông tin đó trong toàn bộ tổ chức để
có kế hoạch phối hợp các đơn vị chức năng
nhằm ứng phó với các cơ hội của thị trường.
Ban đầu định nghĩa của tác giả đã bắt nguồn
từ góc độ thị trường, sau đó chỉ ra sự phối hợp
giữa các bộ phận có liên quan trong việc đáp
ứng các nhu cầu thị trường.
Slater và Narver (1990) tiếp cận định
hướng thị trường như là một khía cạnh văn
hóa doanh nghiệp. Theo đó định hướng thị
trường là các hành động cần thiết và có hiệu
quả nhằm tạo ra giá trị vượt trội cho khách
hàng, và từ đó sẽ mang lại kết quả kinh doanh
vượt trội cho doanh nghiệp.
Mặc dù các tác giả trên đã tiếp cận định
nghĩa về định hướng thị trường từ các góc độ
khác nhau, tuy nhiên tất cả đều đi đến điểm
chung là doanh nghiệp cần phải tập trung vào
khách hàng và đó là trách nhiệm chung của
cả tổ chức chứ không phải là trách nhiệm của
một bộ phận.
2.2. Các thành phần của định hướng thị
trường
Slater và Narver (1990) cho rằng định
hướng thị trường bao gồm 3 thành phần: Định
hướng về khách hàng, định hướng cạnh tranh
và phối hợp chức năng:
66
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
y Định hướng về khách hàng (Customer
orientation): Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho
khách hàng bằng cách gia tăng các lợi ích cho
khách hàng trong mối tương quan với việc
giảm các chi phí mà khách hàng bỏ ra. Do
đó việc tìm hiểu, xác định được các nhu cầu
hiện tại và trong tương lai của khách hàng là
điều cần thiết. Hơn thế nữa, một khi đã quan
tâm đến thành phần định hướng khách hàng,
doanh nghiệp sẽ xem xét đến việc sử dụng
một cách có hiệu quả việc sử dụng các nguồn
lực có giới hạn của mình để mang lại những
giá trị vượt trội cho khách hàng hiện hữu và
khách hàng mục tiêu.
y Định hướng cạnh tranh (Competitor
orientation): Bao gồm các hoạt động liên quan
đến việc đạt được các thông tin từ đối thủ cạnh
tranh trong thị trường mục tiêu và phổ biến các
thông tin đó trong toàn bộ doanh nghiệp. Theo
đó, doanh nghiệp phải nắm bắt được điểm mạnh,
điểm yếu trong ngắn hạn cũng như các năng lực,
chiến lược dài hạn của các đối thủ cạnh tranh ở
hiện tại và các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
y Phối hợp chức năng (Interfunctional
coordination): Sự xuất hiện của thành phần
này trong định hướng thị trường dựa trên nền
tảng của hoạt động định hướng khách hàng và
định hướng cạnh tranh. Khi đã nắm bắt được
các thông tin của hai thành phần trên thì việc
kết hợp các nguồn lực của công ty để tạo ra
giá trị tốt nhất cho khách hàng mục tiêu là
điều cần thiết để mang lại kết quả kinh doanh
tốt cho doanh nghiệp.
Định hướng thị trường theo Kohli và
Jaworski gồm 3 thành phần chính, đó là: Tạo
lập và thu thập thông tin; Phổ biến thông tin
cho các bộ phận chức năng và đáp ứng nhu
cầu khách hàng.
Nội dung của thành phần định hướng
khách hàng và định hướng cạnh tranh của
Slater và Narver cũng bao hàm các các nội
dung về quá trình tạo lập thông tin thị trường
của Kohli và Jaworski. Tuy nhiên, Slater và
Narver lại không đề cập đến các hoạt động
ứng phó của doanh nghiệp với các cơ hội của
thị trường như Kohli và Jaworski.
Kết quả nghiên cứu của hai nhóm tác giả
trên đã khơi nguồn cho nhiều nghiên cứu
tại các nước khác nhau như Mỹ, Canada,
NewZealand, Trung Quốc, Hong Kong
Slater và Narver (1990), Deng và Dart (1994),
Grey và cộng sự (1998), Deng và Dart (1998).
Nhìn chung, các nghiên cứu đều dựa trên ba
thành phần cơ bản là định hướng khách hàng,
định hướng cạnh tranh và phối hợp chức năng.
Cho đến năm 1994, Deng và Dart đã bổ sung
thêm thành phần thứ tư của định hướng thị
trường chính là định hướng lợi nhuận (Profit
Orientation). Lợi nhuận là mối quan tâm hàng
đầu ở hầu hết các doanh nghiệp, việc định
hướng lợi nhuận là cơ sở để doanh nghiệp có
hướng đầu tư nguồn lực tốt hơn cho hoạt động
kinh doanh của mình, tập trung nguồn lực cho
các hoạt động mang lại lợi nhuận cao. Nội
dung của thành phần định hướng lợi nhuận
là xác định được lợi nhuận từ các hoạt động
kinh doanh chính, từ các kênh phân phối khác
nhau cũng như lợi nhuận từ các khu vực kinh
doanh của công ty.
Gray và cộng sự (1998) qua nghiên cứu
các công ty tại New Zealand đã xây dựng bộ
thang đo tổng hợp năm thành phần của định
hướng thị trường, bao gồm ba thành phần cơ
bản cùng với thành phần định hướng lợi nhuận
và ứng phó nhanh nhạy (Responsiveness).
Đến đây, định hướng thị trường được xem là
một khái niệm hoàn thiện tổng hợp từ nghiên
cứu của các tác giả đã nêu và được ứng dụng
đối với toàn bộ ngành công nghiệp tại một
quốc gia khác ngoài Mỹ, một bước tiến so với
67
Tác động của định hướng . . .
phạm vi nghiên cứu tại một doanh nghiệp của
Slater và Narver. Thang đo này cũng được
ứng dụng trong các nghiên cứu về định hướng
thị trường tại Việt Nam (Lại Văn Tài và Hứa
Kiều Phương Mai, 2007; Lê Nguyễn Hậu và
Phạm Ngọc Thúy, 2007; Bùi Huy Hải Bích và
Võ Thị Thanh Nhàn, 2007)...
2.3. Khái niệm kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp
Kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh
(Business Performance) là những gì mà doanh
nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất
kinh doanh nhất định, kết quả là mục tiêu cần
thiết của mỗi doanh nghiệp. Đây cũng là mục
tiêu được quan tâm nhiều nhất bởi các nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị bởi kết quả
kinh doanh không chỉ là mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp mà còn là tiêu chí dùng để
so sánh với đối thủ cạnh tranh. Richard và
cộng sự (2009) đã kết luận rằng kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp được đánh giá dựa
vào ba nguồn kết quả đầu ra của công ty: Kết
quả tài chính (Financial performance) như
lợi nhuận, lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA),
lợi nhuận từ hoạt động đầu tư (ROI),; Kết
quả về thị trường (Market performance) như
doanh số, thị phần; và các kết quả mang lại
cho cổ đông như lợi nhuận, giá trị tăng thêm
của cổ phiếu.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
có thể là những đại lượng cụ thể có thể định
lượng cân đong đo đếm được cũng có thể là
những đại lượng chỉ phản ánh được mặt chất
lượng hoàn toàn có tính chất định tính như
thương hiệu, uy tín, sự tín nhiệm của khách
hàng về chất lượng sản phẩm. Trong những
năm gần đây, các nhà quản trị thường sử dụng
phương pháp thẻ điểm cân bằng (Balanced
scorecard) để đo lường kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty. Phương pháp này có thể
sử dụng để đánh giá tất cả các hoạt động của
doanh nghiệp như: tài chính, dịch vụ khách
hàng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và
cương vị của người lãnh đạo.
Kết quả hoạt động kinh doanh có thể được
đánh giá dưới hai góc độ chủ quan và khách
quan. Đánh giá chủ quan dựa vào việc tự đánh
giá theo quan điểm của doanh nghiệp, trong
khi đánh giá khách quan thì dựa vào các chỉ
số tài chính, thị phần, doanh thu của doanh
nghiệp trên thị trường.Tuy nhiên, trong hầu
hết các nghiên cứu về tác động của định hướng
thị trường đến kết quả kinh doanh, các tác giả
thường sử dụng cách đánh giá chủ quan. Có lẽ
việc thu thập thông tin về tài chính, doanh thu
và thị phần của doanh nghiệp bị giới hạn bởi
phần lớn các chủ doanh nghiệp có xu hướng
e ngại công khai thông tin về hoạt động của
công ty ra bên ngoài.
2.4. Mối quan hệ giữa định hướng thị
trường và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp
Mối quan hệ giữa định hướng thị trường
và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đã
được nghiên cứu trong nhiều ngành khác nhau
từ sản xuất, thương mại đến phi thương mại.
Trong giai đoạn đầu thập niên 90, vấn đề này
được nghiên cứu nhiều nhất tại Mỹ. Nghiên
cứu của Slater và Narver (1990), Jaworski và
Kohli (1993) được xem là một trong những
nghiên cứu tiền đề đã chứng minh ảnh hưởng
tích cực của định hướng thị trường lên kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Sau đó, mối
quan hệ này càng được khẳng định tại nhiều
quốc gia trên thế giới (Bảng 2.1).
68
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Bảng 2.1: Sơ lược một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa MO và kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Tác giả/
Quốc gia Mẫu
Nguồn gốc
thang đo MO
Đo lường kết quả
kinh doanh
Mối quan hệ
giữa MO và kết
quả kinh doanh
Slater và Narver
(Mỹ, 1990)
113 đơn vị kinh
doanh chiến
lược (SBU)
Tổng hợp lý
thuyết ROA (+)
Jaworski và
Kohli
(Mỹ, 1993)
Mẫu 1: 222 đơn
vị kinh doanh
chiến lược
(SBU)
Mẫu 2: 230
công ty
Tổng hợp lý
thuyết
Thị phần
Sự phối hợp trong tổ
chức
Tinh thần đồng đội
Kết quả kinh doanh
tổng thể
(0)
(+)
(+)
(+)
Deng và Dart
(Canada, 1994) 248 công ty
Narver và
Slater
Kết quả về thị
trường (+)
Chan và Ellis
(Hong Kong,
1998)
73 công ty dệt
may, da giày
Narver và
Slater
Tăng trưởng
Lợi nhuận
(+)
(+)
Gray và
cộng sự (New
Zealand,1998)
490 công ty
Slater và
Narver,
Jaworski và
Kohli, Deng
và Dart
Thương hiệu
Sự thỏa mãn của
khách hàng
Lòng trung thành
của khách hàng
ROI
(+)
(+)
(+)
(+)
Baker và Sinkula
(Mỹ, 1999) 411 công ty
Kohli và cộng
sự
Thị phần
Sự thành công của
sản phẩm mới
Kết quả kinh doanh
tổng thể
(+)
(+)
(+)
Sin và cộng sự
(Hong Kong,
2005)
63 khách sạn Narver and Slater
Kết quả về thị
trường
Kết quả về tài chính
(+)
(+)
Singh (Phần
Lan, 2006) 33 thư viện Lozano Hiệu quả dịch vụ (+)
Mahmoud
(Ghana, 2011)
191 doanh
nghiệp vừa và
nhỏ
Slater và
Narver,
Jaworski và
Kohli
Kết quả kinh doanh (+)
69
Tác động của định hướng . . .
Lê Nguyễn Hậu
và Phạm Ngọc
Thúy (Việt Nam,
2007)
301 doanh
nghiệp
Slater và
Narver,
Jaworski và
Kohli, Deng
và Dart, Gray
và cộng sự
Doanh thu
Lợi nhuận
Thị phần
(+)
(+)
(+)
Lại Văn Tài
và Hứa Kiều
Phương Mai
(Việt Nam,
2007)
183 doanh
nghiệp vừa và
nhỏ ngành du
lịch
Slater và
Narver,
Jaworski
và Kohli,
Deshpande và
cộng sự, Gray
và cộng sự,
Lafferty và
Hult
Lợi nhuận
Doanh thu
Thị phần
Mục tiêu kinh doanh
Ứng phó nhanh
nhạy: (+)
Các thành phần
còn lại: (0)
Bùi Huy Hải
Bích và Võ Thị
Bích Nhàn (Việt
Nam, 2007)
149 doanh
nghiệp cơ khí
Slater và
Narver,
Jaworski và
Kohli, Deng
và Dart, Gray
và cộng sự
Phối hợp chức
năng, định
hướng khách
hàng và định
hướng cạnh
tranh: (+)
Định hướng lợi
nhuận: (0)
(+): Tác động tích cực, (0): Không có tác động.
Nghiên cứu của Sin và cộng sự (2005) tại
thị trường khách sạn Hong Kong là một trong
những nghiên cứu khẳng định sự phù hợp của
thang đo Narver và Slater trong lĩnh vực dịch
vụ ở một quốc gia phương Đông. Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra mức độ tác động tích cực
của các thành tố định hướng thị trường đến kết
quả tài chính như: ROI, ROS, sự tăng trưởng
doanh thu, thị phần và các kết quả liên quan
đến thị trường như: Sự duy trì khách hàng,
sự thỏa mãn của khách hàng cũng như sự tín
nhiệm tổ chức. Đối với từng thành phần cụ
thể, tác giả đã chứng minh được định hướng
khách hàng là thành phần ảnh hưởng mạnh
nhất đến các kết quả thị trường, trong khi phối
hợp chức năng là thành phần duy nhất có ý
nghĩa thống kê tác động chủ yếu đến các kết
quả về tài chính. Tuy nhiên, nghiên cứu này
bị giới hạn về mẫu khảo sát và thang đo biến
phụ thuộc.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Lê Nguyễn
Hậu và Phạm Ngọc Thúy (2007) về tác động
của các thành phần định hướng thị trường đến
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ở Tp.
Hồ Chí Minh dựa trên năm thành phần của
định hướng thị trường là định hướng khách
hàng, định hướng cạnh tranh, phối hợp chức
năng, kiểm soát lợi nhuận và ứng phó nhanh
nhạy. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiện
tại các doanh nghiệp ở Tp. Hồ Chí Minh đang
có mức độ định hướng thị trường khá và việc
vận dụng tốt định hướng thị trường sẽ mang lại
kết quả kinh doanh tốt hơn cho doanh nghiệp.
Hầu hết các doanh nghiệp đều chú trọng đến
70
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
thành phần định hướng khách hàng, phối hợp
chức năng, ứng phó nhanh nhạy và chưa quan
tâm nhiều đến thành phần định hướng cạnh
tranh. Riêng thành phần kiểm soát lợi nhuận
có tác động ít nhất trong các thành phần.
Nghiên cứu của Lại Văn Tài và Hứa Kiều
Phương Mai (2007) về định hướng thị trường
trong ngành du lịch khách sạn cho thấy các
biến của mô hình chưa giải thích được nhiều
cho kết quả kinh doanh. Nghiên cứu cũng đã
chỉ ra tác động đáng kể của thành phần ứng
phó nhanh nhạy đến kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp so với bốn thành
phần còn lại.
Nghiên cứu của Bùi Huy Hải Bích và Võ
Thị Thanh Nhàn (2007) về định hướng thị
trường trong các doanh nghiệp kinh doanh
cơ khí tại Tp. Hồ Chí Minh cũng đã kết luận
thành phần phối hợp chức năng có tác động
mạnh nhất đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp so với bốn thành phần khác.
2.5. Mô hình nghiên cứu đề nghị
Từ cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên
quan cũng như lập luận ở trên, mô hình hồi
nghiên cứu đề nghị với biến phụ thuộc là kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp, còn các
biến độc lập là các thành phần của định hướng
thị trường: Định hướng khách hàng, định
hướng cạnh tranh, phối hợp chức năng và ứng
phó nhanh nhạy. Thành phần định hướng ợi
nhuận không được xem xét trong mô hình này
bởi trong các nghiên cứu trước thành phần
này được cho là có tác động ít và không đáng
kể đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực hiện bằng cách phối hợp
cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng. Trong đó nghiên cứu
định tính nhằm khám phá, tìm hiểu về các
thành phần của định hướng thị trường thông
qua các lý thuyết, bước này nhằm xem xét lại
các biến quan sát trong mô hình lý thuyết bằng
kỹ thuật thảo luận nhóm gồm 5 anh chị là các
giám đốc, trưởng phòng, nhân viên đang làm
việc tại các lĩnh vực kinh doanh thương mại,
bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng và
công nghệ thông tin, từ đó hiệu chỉnh thang
đo cho phân tích định lượng. Kết quả nghiên
cứu định tính cho thấy mô hình nghiên cứu đề
nghị là phù hợp và 15 biến quan sát được sử
dụng để đo lường các khái niệm nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử
71
Tác động của định hướng . . .
dụng để kiểm định mô hình nghiên cứu và
đánh giá thang đo các khái niệm nghiên cứu.
Việc thu thập thông tin phục vụ cho nghiên
cứu định lượng được tiến hành thông qua
thư điện tử (email) và trả lời câu hỏi trực tiếp
(thông qua bảng câu hỏi khảo sát) các chủ sở
hữu/giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng/
bộ phận kinh doanh tại các doanh nghiệp
thương mại dịch vụ ở TP.HCM, thực hiện vào
tháng 8 năm 2013.
4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐỊNH
LƯỢNG
4.1. Mẫu
Mẫu được thu thập theo phương pháp
thuận tiện, đối tượng khảo sát là cấp quản
lý doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ tại Tp. Hồ Chí. Quy mô mẫu được
xác định theo quan điểm Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc (2008) là 5 quan sát cho
mỗi biến quan sát.Trong nghiên cứu này có 15
biến quan sát được sử dụng, do đó kích thước
mẫu phải là 75 quan sát. Kết quả khảo sát thu
được 37 phiếu qua email và 119 phiếu khảo
sát trực tiếp.
Bảng 4.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm Tần số Tỷ trọng (%)
Hình thức sở hữu Nhà nước 14 9
Doanh nghiệp tư nhân 16 10.3
Trách nhiệm hữu hạn 84 53.8