Bài nghiên cứu sẽ đi vào xem xét vai trò thúc đẩy liên kết của ngành sản xuất công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam trong bối cảnh từ cuối năm 2019 đến nay, nền kinh tế thế giới và trong nước
đang phải gánh chịu những tác động nặng nề từ đại dịch Covid-19. Để đẩy lùi các thách thức, phát triển
CNHT sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự liên kết giữa doanh nghiệp CNHT nội địa
và doanh nghiệp lắp ráp, doanh nghiệp FDI, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao giá trị gia tăng cho
sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm và cả nền kinh tế, Dựa trên cách tiếp cận phương
pháp bảng cân đối liên ngành (I/O), bài viết xác định các hệ số liên kết giữa ngành CNHT với các ngành
sản xuất khác trong nền kinh tế và với toàn bộ nền kinh tế, từ đó, kết luận của bài viết cho thấy rằng, ngành
CNHT có vai trò quan trọng với tư cách là ngành cung ứng đầu vào cho các ngành sản xuất trong nền kinh
tế và thúc đẩy liên kết sẽ có ý nghĩa lớn trong quá trình phát triển các ngành CN CBCT Việt Nam trong bối
cảnh đại dịch.
13 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động liên kết của phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19: Tiếp cận theo phương pháp bảng cân đối liên ngành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sè 149 + 150/2021 thương mại
khoa học
1
3
14
25
35
43
50
63
76
MỤC LỤC
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ
1. Trần Việt Thảo và Vũ Thị Thanh Huyền - Tác động liên kết của phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19: tiếp cận theo phương pháp bảng cân đối liên ngành,
Mã số: 149+150.1 DEco.11
The Impacts of Linkages in the Development of Vietnam’s Supporting Industries in the Context
of the Covid-19: Inter-Sector Balance Sheet Approach
2. Phan Thị Thu Hiền và Bùi Thái Quang - Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ pháp
luật xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam. Mã số: 149+150.1IIEM.12
A Study on the Factors Affecting Goods Import-Export Law Compliance by Vietnamese
Enterprises
3. Phạm Lê Hồng Nhung, Nguyễn Nhật Minh, Nguyễn Thị Tú Trinh và Đinh Công Thành - Phát
triển du lịch cụm Cần Thơ - Sóc Trăng - Bạc Liêu - Cà Mau theo hướng liên kết mạng lưới các điểm
du lịch. Mã số: 149+150.1TrEM.11
Tourism development in association of tourist attractions in Can Tho- Soc Trang- Bac Lieu-
Ca Mau
4. Lê Thanh Huyền - Ảnh hưởng của các yếu tố bên trong đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp
niêm yết ngành sản xuất, chế biến thực phẩm ở Việt Nam. Mã số: 149+150.1FiBa.11
The effects of internal factors on profitability of various listed companies in Vietnamese food
processing industry
QUẢN TRỊ KINH DOANH
5. Lê Đình Nghi - Mối quan hệ giữa suất sinh lợi, độ biến thiên và khối lượng giao dịch tại thị trường
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Mã số: 149+150.2FiBa.21
The Relationship among Return, Volatility, and Trade Volume on Hochiminh City Stock
Exchange (HOSE)
6. Đào Tuyết Lan - Hiệu quả áp dụng chuẩn mực kế toán thuế thu nhập doanh nghiệp tại các doanh
nghiệp trên địa bàn TP. HCM. Mã số: 149+150.2 BAcc.22
The Efficiency of Corporate Income Tax (CIT) Accounting Standards in Enterprises in Ho Chi Minh
7. Ngô Thị Khuê Thư, Trương Bá Thanh và Trần Triệu Khải - Ảnh hưởng của chất lượng tích hợp
kênh đến lòng trung thành khách hàng trong ngành khách sạn ở Việt Nam. Mã số: 149+150.2BMkt.21
The Effect of Multi-channel Integration Quality on Customer Loyalty in the Hotel Industry in Vietnam
8. Nguyễn Thị Phương Anh và Vũ Huy Thông - Hành vi mua ngẫu hứng của người tiêu dùng Việt
Nam theo độ tuổi, thu nhập và nghề nghiệp: Nghiên cứu sản phẩm quần áo may sẵn. Mã số:
149+150.2BMkt.22
Impulse Buying Behaviour of Vietnamese Consumers by Age, Income, and Profession: Case
Study on Ready-to-Wear Clothing Products
ISSN 1859-3666
Sè 149 + 150/20212 thương mại
khoa học
9. Nguyễn Thị Thanh Nhàn và Vũ Tuấn Dương - Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên với
chương trình đào tạo đặc thù ngành du lịch. Mã số: 149+150.2OMIS.21
Study on Student Satisfaction with the Tourism -Specific Training Program
10. Vũ Thị Kim Anh - Phương pháp tiếp cận kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro trong doanh nghiệp:
nghiên cứu tại các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản Việt Nam. Mã số: 149+150.2DEco.21
Risk-Based Internal Audit in Enterprises: Case Study in Vietnamese Real Estate Businesses
11. Nguyễn Tuấn Kiệt và Hồ Hữu Phương Chi - Thái độ đối với rủi ro của nông dân Đồng bằng
Sông Cửu Long: Bằng chứng thực nghiệm với thang đo DOSPERT. Mã số: 149+150.2
The Attitudes toward Risks of Framers in Mekong Delta: Experimental Evidence with
DOSPERT
12. Hà Minh Hiếu - Nghiên cứu yếu tố tác động đến việc lựa chọn nhà cung ứng dịch vụ logistics
của chủ hàng Việt Nam trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Mã số: 149+150.2BMkt.21
A Study on Factors Affecting the Choice of Logistics Service Suppliers of Vietnam’s Goods
Owners in the Covid-19 Pandemic
13. Nguyễn Trần Hưng và Đỗ Thị Thu Hiền - Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
sử dụng ứng dụng du lịch thông minh của du khách đến Hà Nội. Mã số: 149+150.2TRMg.21
A Study on the Factors Affecting the Decision to Use Smart Travel Apps by Visitors to
Hanoi
14. Nguyễn Hữu Khôi, Nguyễn Thị Nga và Bùi Hoàng Ngọc - Mối quan hệ giữa tính “sành điệu”
của sản phẩm thời trang, giá trị cảm nhận và ý định mua của người tiêu dùng trẻ tuổi tại Nha Trang.
Mã số: 149+150.2BMkt.21
The Relationship between the “Excellence” of the Fashion Products, the Perceived Value,
and the Purchase Intention of Young Consumers in Nha Trang City
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
15. Hoàng Thanh Hạnh - Một số vấn đề lý luận về kiểm toán kê khai tài sản - thu nhập do kiểm
toán nhà nước thực hiện. Mã số: 149+150.3BAcc.32
Several Theoretical Issues on Asset and Income Declaration Auditing by State Audit
16. Nguyễn Thị Phương Thảo và Nguyễn Văn Anh - Đánh giá sự hài lòng của người dân đối với
chất lượng dịch vụ công trực tuyến - Góc nhìn từ những người đã sử dụng dịch vụ. Mã số:
149+150.3OMIS.32
Assessment of citizen's satisfaction with online public service quality - Perspective from
those who have used the online service
17. Đinh Văn Toàn - Nghiên cứu doanh nghiệp học thuật Spin-offs từ các trường đại học trên thế
giới và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam. Mã số: 149+150.3OMIS.31
Research on Spin-offs in Universities in the World and Problems of Tertiary Education in
Vietnam
82
93
104
115
123
137
148
156
167
1. Đặt vấn đề
Từ cuối năm 2019 đến nay, nền kinh tế Việt Nam
nói chung và các ngành trong nền kinh tế nói riêng
đang đứng trước nhiều thách thức do những ảnh
hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid. Giai đoạn đầu
năm 2020, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
(CN CBCT) Việt Nam cũng đã phải chịu tác động
lớn bởi vấn đề thiếu hụt nguồn cung linh phụ kiện
nhập khẩu phục vụ sản xuất do ảnh hưởng bởi dịch
bệnh từ các quốc gia đang bùng phát dịch. Cùng với
đó là sự suy giảm nhu cầu xuất khẩu các sản phẩm
công nghiệp, khiến cho tăng trưởng toàn ngành bị
giảm sút nghiêm trọng,... Như vậy, để hạn chế các
ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch thì phát triển các
ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước có ý nghĩa rất
quan trọng, từ đó, thúc đẩy sự liên kết trong nội bộ
ngành công nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế;
gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm chi phí hàng trung
gian, cũng như nâng cao sức cạnh tranh và giá trị gia
tăng của hàng xuất khẩu, Bên cạnh đó, phát triển
CNHT còn thúc đẩy quá trình cải tiến công nghệ,
nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp, thu hút
FDI, Phát triển CNHT sẽ tạo tác động lan tỏa đến
các ngành kinh tế khác. Việc đưa ra những phân tích
về tác động liên kết của phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam sẽ là những cơ sở cần thiết
cho việc xây dựng và thực thi các chính sách phát
triển CNHT trong bối cảnh đại dịch vẫn diễn biến
phức tạp trên thế giới.
2. Một số cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1. Một số cơ sở lý thuyết có liên quan
Một số khái niệm
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) theo nghĩa rộng
được hiểu là việc sản xuất ra các sản phẩm trung
gian cho quá trình sản xuất chính như sơ chế các
nguyên liệu thô hoặc chế tạo một phần những sản
3
?
Sè 149 + 150/2021
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
TÁC ĐỘNG LIÊN KẾT CỦA PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19:
TIẾP CẬN THEO PHƯƠNG PHÁP BẢNG CÂN ĐỐI LIÊN NGÀNH
Trần Việt Thảo
Trường Đại học Thương mại
Email: tranvietthao@tmu.edu.vn
Vũ Thị Thanh Huyền
Trường Đại học Thương mại
Email: thanhhuyenvu86@gmail.com
Ngày nhận: 08/09/2020 Ngày nhận lại: 21/12/2020 Ngày duyệt đăng: 07/01/2021
B
ài nghiên cứu sẽ đi vào xem xét vai trò thúc đẩy liên kết của ngành sản xuất công nghiệp hỗ trợ
(CNHT) Việt Nam trong bối cảnh từ cuối năm 2019 đến nay, nền kinh tế thế giới và trong nước
đang phải gánh chịu những tác động nặng nề từ đại dịch Covid-19. Để đẩy lùi các thách thức, phát triển
CNHT sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự liên kết giữa doanh nghiệp CNHT nội địa
và doanh nghiệp lắp ráp, doanh nghiệp FDI, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao giá trị gia tăng cho
sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm và cả nền kinh tế, Dựa trên cách tiếp cận phương
pháp bảng cân đối liên ngành (I/O), bài viết xác định các hệ số liên kết giữa ngành CNHT với các ngành
sản xuất khác trong nền kinh tế và với toàn bộ nền kinh tế, từ đó, kết luận của bài viết cho thấy rằng, ngành
CNHT có vai trò quan trọng với tư cách là ngành cung ứng đầu vào cho các ngành sản xuất trong nền kinh
tế và thúc đẩy liên kết sẽ có ý nghĩa lớn trong quá trình phát triển các ngành CN CBCT Việt Nam trong bối
cảnh đại dịch.
Từ khóa: công nghiệp hỗ trợ, liên kết ngược, liên kết xuôi, bảng I/O, covid-19.
JEL Classifications: D22, D50, D51
phẩm chính tương tự theo tiêu chuẩn kỹ thuật và
giấy phép của chính hãng. Hoặc theo nghĩa hẹp
“Công nghiệp hỗ trợ gồm một nhóm các hoạt động
công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian (gồm
linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản xuất ra các
linh kiện phụ tùng) cho các ngành công nghiệp lắp
ráp và chế biến” (Thúy, 2007); (Mori, 2005). Trong
phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm tác giả lựa chọn
tiếp cận CNHT theo nghĩa hẹp. Theo đó, Công
nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất các
nguyên vật liệu cơ bản, các linh kiện, phụ tùng, bán
thành phẩm để cung cấp cho các ngành công nghiệp
lắp ráp như ngành ô tô, xe máy, điện, điện tử,...
Khái niệm liên kết trong công nghiệp: Theo
nghĩa hẹp, liên kết công nghiệp có thể xảy ra khi
một hãng sản xuất mua các đầu vào để sản xuất hàng
hóa hoặc dịch vụ hoặc bán cho hãng sản xuất khác.
Theo nghĩa rộng, liên kết công nghiệp bao gồm tất
cả các hoạt động hợp tác, bao gồm các luồng vật liệu
và thông tin, giữa các yếu tố riêng biệt và các chức
năng của hệ thống sản xuất. Liên kết sản xuất là một
sự kết hợp các sản phẩm chảy từ các nhà máy, đến
các nhà bán lẻ, bán buôn, công chúng, cũng như các
hãng sản xuất khác (Dobson, 1984).
Liên kết công nghiệp có thể diễn ra theo chiều
dọc và theo chiều ngang. Trong đó, liên kết dọc diễn
ra theo dây chuyền sản xuất môt loại sản phẩm, từ
khâu cung cấp nguyên liệu, trang thiết bị đến khâu
cung ứng ra thị trường. Các doanh nghiệp tham gia
liên kết dọc nhằm tạo ra chuỗi giá trị giúp nâng cao
năng lực cạnh tranh của cả một ngành công nghiệp.
Liên kết dọc bao gồm liên kết phía trước (forward
linkages), còn gọi là liên kết thượng du, khi sản
phẩm của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh
nghiệp khác, và liên kết sau (backward linkages)
hay liên kết hạ du trong khâu lưu thông, tiêu thụ.
Liên kết ngang diễn ra khi một số doanh nghiệp
cùng hợp tác để nhận thầu môt gói đặt hàng lớn vượt
khả năng của một doanh nghiệp (Liêm).
Như vậy, đối tượng của liên kết trong hoạt động
sản xuất công nghiệp nói chung chính là các doanh
nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất, bao gồm: các
doanh nghiệp lắp ráp, doanh nghiệp sản xuất CNHT
hay chính là mối quan hệ liên kết giữa các DN nội
địa, DN FDI và các tập đoàn đa quốc gia Từ đó,
có thể hiểu đối tượng nhận tác động từ liên kết phát
triển ngành CNHT sẽ bao gồm tất cả các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất công nghiệp
chế biến, chế tạo: từ khâu cung cấp các sản phẩm
CNHT như nguyên phụ liệu, linh phụ kiện, đến
khi sản xuất ra thành phẩm và cung ứng ra thị trường.
Tác động của đại dịch Covid đến sự phát triển
của CNHT:
Định nghĩa về đại dịch Covid-19: Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) giải thích rằng Coronaviruses
(Cov) là một loại virus lây nhiễm vào hệ hô hấp,
nhiễm virus này được gọi là COVID19. Vi-rút
Corona gây ra cảm lạnh thông thường đến các bệnh
nặng hơn như Hội chứng Hô hấp Trung Đông
(MERS-CoV) và Hội chứng Hô hấp Cấp tính nặng
(SARS-CoV). Vi rút Corona lây truyền từ động vật
sang người. Sự phát triển của ca bệnh COVID-19 ở
Vũ Hán bắt đầu vào ngày 30 tháng 12 năm 2019 khi
Ủy ban Y tế thành phố Vũ Hán ra thông báo “thông
báo khẩn cấp về việc điều trị viêm phổi không rõ
nguyên nhân”. Sự lây lan của vi rút Corona rất
nhanh, ngay cả giữa các quốc gia. Cho đến nay đã
có 188 quốc gia xác nhận virus Corona. Sự lây lan
của virus Corona đã lan ra nhiều nơi trên thế giới có
tác động đến các nền kinh tế, bao gồm cả tác động
về sản xuất, thương mại, đầu tư và du lịch.
Từ định nghĩa của Covid-19, chúng ta có thể kết
luận mức độ nguy hiểm của Covid-19, nó dễ dàng
lây lan và lây lan rất nhanh đến mức có thể lây nhiễm
sang hầu hết các quốc gia ở mọi nơi trên thế giới.
Các tác động của đại dịch Covid-19 đến
ngành CNHT:
Xét về phương diện kinh tế, cú sốc do đại dịch
Covid-19 đã ảnh hưởng lớn tới toàn nền kinh tế nói
chung do sự suy giảm cả về phía cung và phía cầu,
đối với các ngành CNHT, các tác động có thể biểu
hiện dưới các khía cạnh chủ yếu:
(i) Về phía cung, nguồn cung đã giảm sút do sản
xuất - kinh doanh bị đình trệ, chi phí tăng cao do
thiếu hụt và đứt quãng nguồn lao động, nguyên vật
liệu, vốn tín dụng để thực hiện chính sách hạn chế di
chuyển, cách ly và các biện pháp điều trị, phòng và
tránh dịch bệnh khác (Sulistiyani & Riyanto, 2020);
(Sodhi, 2020).
(ii) Về phía cầu, cầu (nhu cầu tiêu thụ) cũng
giảm mạnh do các chi phí tăng lên và thị trường cảm
nhận mức độ rủi ro gia tăng cùng với thu nhập bị
giảm sút (do thất nghiệp, giảm việc làm)
(UNIDO, 2020); (Sulistiyani & Riyanto, 2020);
(Sodhi, 2020)
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
khoa hoïc
thöông maïi4 Sè 149 + 150/2021
?
Các tác động trên đã lan tỏa mang tính toàn cầu
do tính chất mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa của
các nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính
và thương mại. Xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp nói chung và công nghiệp hỗ trợ nói riêng bị
suy giảm do sự đứt gãy của các chuỗi sản xuất,
chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, các hoạt động
thu hút FDI cũng bị đứt quãng nghiêm trọng do ảnh
hưởng từ dịch bệnh (UNIDO, 2020).
Vai trò liên kết của ngành CNHT đối với tăng
trưởng, phát triển kinh tế trong bối cảnh đại dịch
Một là, vai trò đối với lợi thế cạnh tranh quốc
gia: Theo (Porter, 2012), ngành CNHT là một trong
bốn nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh của một
quốc gia. Sự tồn tại của các ngành hỗ trợ có khả
năng cạnh tranh quốc tế trong một quốc gia tạo ra
những lợi thế liên kết cho các ngành công nghiệp sử
dụng đầu ra để chủ động hội nhập. Cụ thể là:
(i) Thông qua việc tiếp cận hầu hết các yếu tố
đầu vào sẵn có từ ngành CNHT, ngành công nghiệp
sẽ sinh lời một cách hiệu quả, nhanh chóng và đôi
khi được ưu đãi.
(ii) Ngành hỗ trợ tạo ra lợi thế nhờ việc phối hợp
liên tục trong sử dụng máy móc và các yếu tố đầu
vào khác. Ngành CNHT có khả năng tạo ra mối liên
kết giữa các công ty trong chuỗi giá trị và các nhà
cung cấp của họ.
(iii) CNHT tạo ra quá trình đổi mới và cải tiến
thông qua mối quan hệ liên kết công việc giữa các
nhà cung cấp hàng phụ trợ và nhà sản xuất. Người
cung cấp giúp các công ty nắm được các phương
pháp mới và có cơ hội áp dụng công nghệ mới. Các
công ty được phép truy cập nhanh chóng thông tin,
những ý tưởng và kiến thức mới và những sáng chế
của nhà cung cấp. Họ có sức ảnh hưởng đến nỗ lực
kỹ thuật của nhà cung cấp cũng như trở thành người
kiểm tra cho việc phát triển các sản phẩm. Việc trao
đổi công tác R&D và cùng tham gia giải quyết các
vấn đề đưa đến các giải pháp nhanh và hiệu quả hơn.
Các nhà cung cấp cũng có xu hướng là một kênh
truyền thông tin và sáng chế từ công ty sang công ty.
Thông qua quá trình này, tốc độ phát minh trong toàn
bộ ngành công nghiệp trong nước được đẩy nhanh.
Hai là, vai trò thúc đẩy liên kết của ngành CNHT
góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng trong dài hạn,
đặc biệt trong bối cảnh đại dịch đang tạo ra những
sự đứt đoạn đối với các chuỗi sản xuất và cung ứng
toàn cầu thông qua việc (i) thu hút và duy trì nguồn
vốn FDI cho ngành lắp ráp cuối cùng tương đối lâu
hơn một quốc gia không có ngành CNHT cạnh
tranh; (ii) sản phẩm của ngành CNHT cung ứng cho
các DN sản xuất lắp ráp trong nước và xuất khẩu tới
các quốc gia mà ngành lắp ráp cuối cùng ở đó đang
có nhu cầu; (iii) sự phát triển của ngành CNHT sẽ
tạo nên ảnh hưởng tích cực trong việc thúc đẩy đổi
mới công nghệ cho mọi đối tượng DN cùng tham
gia trong chuỗi sản xuất, từ đó cải thiện phúc lợi của
một quốc gia (Châu, 2010).
Ba là, vai trò liên kết của CNHT góp phần nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp
xuất khẩu, giúp hoạt động sản xuất công nghiệp chủ
động trong bối cảnh dịch bệnh. Sự phát triển CNHT
trong nước sẽ thúc đẩy liên kết giữa các DN thượng
nguồn và DN hạ nguồn, giữa DN trong nước với các
tập đoàn đa quốc gia, tập đoàn xuyên quốc gia,;
giúp giảm chi phí sản xuất do nâng cao được tỷ lệ
nội địa hóa và giúp các nhà lắp ráp có vốn FDI mở
rộng sản xuất. Thêm vào đó, sự liên kết chặt chẽ
giữa các bên sẽ tạo được nguồn cung đầu vào ổn
định, có chất lượng, từ đó giúp đảm bảo được khả
năng giao hàng cho các DN trong ngành CN chính
(Bình, 2010).
Bốn là, vai trò dẫn dắt dòng vốn FDI. Sự tập
trung của CN linh phụ kiện sẽ tạo điều kiện thu hút
các nhà lắp ráp nước ngoài đầu tư vào. Điều này đặc
biệt quan trọng trong bối cảnh đại dịch vẫn đang
diễn ra phức tạp. Một đất nước sẽ có nhiều cơ hội để
khai thác các tác động tích cực từ FDI nếu nó có các
ngành công nghiệp hỗ trợ cạnh tranh mà có thể mở
rộng các giao dịch kinh doanh với các nhà lắp ráp đa
quốc gia (Thúy, 2007); (Châu, 2010); (Sang &
Huyền, 2011);).
Năm là, vai trò liên kết của CNHT giúp tiếp thu
chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Rõ ràng, việc mở
rộng thu hút FDI vào thị trường nội địa sẽ không chỉ
cung cấp một lượng vốn lớn, mà còn đi liền với sự
đổi mới và chuyển giao công nghệ cho các doanh
nghiệp trong nước. Ngoài ra, các kinh nghiệm về
quản lý sản xuất, đào tạo về nhân lực,... cũng có thể
được truyền đạt thông qua sự hợp tác sản xuất, kinh
doanh với các tập đoàn kinh tế lớn, các nhà đầu tư
nước ngoài, từ đó, nâng cao được hiệu quả và tận
dụng các cơ hội từ hội nhập (Thúy, 2007; Châu,
2010; Sang & Huyền, 2011; ).
Tóm lại, vai trò liên kết của CNHT là vô cùng
quan trọng. Thông qua đặc trưng liên kết trong quá
5
?
Sè 149 + 150/2021
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?trình phát triển ngành CNHT trong nước, ngành
CNHT sẽ tác động đến nền kinh tế thông qua nhiều
kênh khác nhau và tác động đến tất cả các đối tượng
doanh nghiệp trong các chuỗi sản xuất, chuỗi cung
ứng công nghiệp chế biến, chế tạo: (1) tác động thúc
đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp trong nội bộ
ngành và giữa các DN trong các ngành trong nền
kinh tế; (2) tác động nâng cao năng lực cạnh tranh
của các DN công nghiệp sản xuất, (3) tác động đến
sự thu hút và định hướng FDI cho mọi đối tượng DN
sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo, (4) phát triển
công nghệ, đẩy mạnh quá trình đổi mới sản xuất ở
tất cả các DN.
2.2. Mô hình cân đối liên ngành trong phân
tích tác động
Bảng cân đối liên ngành (Bảng I/O) bắt nguồn từ
những ý tưởng trong cuốn "Tư bản" của Karl Marx
khi ông tìm ra mối quan hệ trực tiếp theo quy luật kỹ
thuật giữa các yếu tố tham gia quá trình sản xuất. Tư
tưởng này sau đó được Wassily Leontief phát triển
bằng cách toán học hóa toàn diện quan hệ cung - cầu
trong toàn nền kinh tế. Leontief coi mỗi công nghệ
sản xuất là một mối quan hệ tuyến tính giữa số
lượng sản phẩm được sản xuất ra và các sản phẩm
vật chất, dịch vụ làm chi phí đầu vào. Mối liên hệ
này được biểu diễn bằng một hệ thống hàm tuyến
tính với những hệ số được quyết định bởi quy trình
công nghệ. Tại Việt Nam, ứng dụng từ mô hình I/O
đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng tương đối
rộng rãi. Theo (Cường, Trinh, & Hùng, 2004);
(Toàn, 2011), (Thảo, 2015), mô hình I/O có ý
nghĩa quan trọng trong phân tích tác động lan tỏa
của một ngành tới toàn nền kinh tế; từ đó, cũng có
thể ứng dụng mô hình này để xác định tầm quan
trọng và các ngành trọng điểm trong một nền kinh tế
quốc dân. Do đó, việc sử dụng mô hình I/O trong
phân tích tác đ