Cho thuê tài chính (CTTC) đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây từ rất lâu và đã
trở thành kênh tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty CTTC Việt Nam
còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là đối với các công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại
(NHTM) và tập đoàn kinh tế. Bài viết này chúng tôi tập trung phân tích đánh giá thực trạng hoạt
động của các công ty CTTC thuộc Hiệp hội công ty CTTC Việt Nam, qua đó có cái nhìn toàn diện
về các công ty này và đề xuất một số giải pháp nhằm tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.
13 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Tái cấu trúc . . .
Kinh tế
TÁI CẤU TRÚC CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH
VIỆT NAM
Đoàn Thanh Hà*, Trần Thanh Vũ**
TÓM TẮT
Cho thuê tài chính (CTTC) đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây từ rất lâu và đã
trở thành kênh tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty CTTC Việt Nam
còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là đối với các công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại
(NHTM) và tập đoàn kinh tế. Bài viết này chúng tôi tập trung phân tích đánh giá thực trạng hoạt
động của các công ty CTTC thuộc Hiệp hội công ty CTTC Việt Nam, qua đó có cái nhìn toàn diện
về các công ty này và đề xuất một số giải pháp nhằm tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.
Từ khóa: cho thuê tài chính, tái cấu trúc
RESTRUCTURING OF FINANCIAL LEASING COMPANY VIETNAM
ABSTRACT
Leasing has developed in the world for long time and has become a channel which
sponsors medium and long term capital for businesses, especially for small and medium enterprises
(SMEs) in many countries in the world. However, the activity of leasing companies Vietnam has
many shortcomings, especially for leasing companies under the banks and corporations. This
article focuses on analyzing and assessing the operation situation of leasing companies under
Association Leasing Vietnam, whereby has a comprehensive overview of the company, which has
proposed solutions to restructure the leasing companies Vietnam.
Keywords: leasing, restructuring
* PGS. TS. Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh
** TS. Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương
2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Giới thiệu
Khi nợ xấu trong các công ty CTTC tăng
cao, nguy cơ mất vốn của ngân hàng ngày
càng lớn. Là trung gian tín dụng, nên khi nợ
xấu gia tăng các công ty CTTC có nguy cơ
mất thanh khoản, rủi ro vỡ nợ ngày càng lớn,
hệ thống các định chế tài chính suy yếu, đe
dọa sự bất ổn cho cả nền kinh tế, xã hội của
một quốc gia, thậm chí cả khu vực. Trong
bối cảnh đó niềm tin của các chủ thể trong
nền kinh tế xã hội và hệ thống các định chế
tài chính giảm sút và ảnh hưởng ngược lại
cho chính các công ty CTTC và vòng xoáy
đó ngày càng lan rộng, hướng giải quyết duy
nhất là tái cấu trúc các công ty CTTC.
2. Cơ sở lý thuyết của tái cấu trúc
Tái cấu trúc công ty CTTC là biện pháp
hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt
động của công ty, bao gồm phục hồi khả năng
sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động để làm
tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính
và khôi phục lòng tin của công chúng. Theo
quan điểm này thì tái cấu trúc công ty CTTC
bao gồm tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc
hoạt động và giám sát an toàn. Trong đó, tái
cấu trúc tài chính hướng đến việc phục hồi
khả năng thanh khoản bằng cách cải thiện
bảng cân đối của các công ty CTTC thông qua
các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ, hoặc
nâng giá trị tài sản. Tái cấu trúc hoạt động
hướng đến mục tiêu nâng mức lợi nhuận bằng
cách chú trọng hơn đến chiến lược hoạt động,
cải thiện hiệu quả, năng lực quản lý và hệ
thống kế toán, nâng cao năng lực thẩm định
tín dụng. Việc giám sát và các quy tắc an toàn
được đặt ra nhằm mục tiêu cải thiện năng lực
hoạt động của toàn bộ hệ thống dưới vai trò
là trung gian tài chính. Nói cách khác, tái cấu
trúc các công ty CTTC là các biện pháp
nhằm khắc phục các khiếm khuyết của các
công ty CTTC nhằm mục đích duy trì sự
phát triển ổn định và hiệu quả chức năng
trung gian tài chính của các công ty CTTC
trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng trung
gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả
hoạt động của các công ty CTTC. Nội dung
của tái cấu trúc công ty CTTC bao gồm: Tái
cấu trúc tài chính; Tái cấu trúc hoạt động kinh
doanh; Tái cấu trúc hoạt động quản trị và Tái
cấu trúc sở hữu.
2.1. Tái cấu trúc tài chính
Nội dung trọng tâm của tái cấu trúc tài
chính của công ty CTTC là tăng quy mô, chất
lượng vốn tự có và xử lý nợ xấu cho các công
ty CTTC.
- Tăng quy mô, chất lượng vốn tự có của
các công ty CTTC. Vốn tự có có ý nghĩa rất
lớn đối với sự tồn tại và phát triển của công ty
CTTC vì nó không chỉ là yếu tố tạo nền tảng
cho hoạt động của các định chế tài chính, bảo
bảo đảm sự an toàn cho công ty trước những
rủi ro không lường trước mà còn duy trì niềm
tin với khách hàng và điều chỉnh hoạt động
của công ty. Để tăng quy mô vốn tự có của
các công ty CTTC có thể áp dụng các biện
pháp như: tăng vốn điều lệ, mua lại sáp nhập,
chuyển nợ thành vốn góp. Các biện pháp tăng
quy mô vốn tự có phụ thuộc nhiều vào những
yếu tố từ bên ngoài, bản thân từng công ty khó
có thể chủ động quyết định. Chẳng hạn việc
tăng vốn điều lệ đối với công ty cổ phần CTTC
phụ thuộc nhiều vào xu hướng của thị trường
chứng khoán. Các công ty CTTC cũng có thể
tăng vốn tự có về lượng và chất khi tăng tỷ lệ
lợi nhuận giữ lại. Phần vốn tự có tăng thêm
do trích từ lợi nhuận, công ty không phải trả
phí, vì vậy đây là nguồn vốn có chi phí thấp và
được coi là có chất lượng. Các công ty CTTC
có thể chủ động hoàn toàn khi tăng vốn tự có
bằng cách tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại.
3Tái cấu trúc . . .
- Xử lý nợ xấu. Một trong những nội dung
cần thiết trong tiến trình tái cấu trúc tài chính
công ty CTTC là phải xác định, nắm chính
xác con số nợ tồn đọng của các công ty được
tái cấu trúc là bao nhiêu, trên cơ sở đó để có
các bước xử lý có hiệu quả. Để xử lý nợ xấu
có thể áp dụng các biện pháp như: cấu trúc
lại nợ, xử lý tài sản đảm bảo, bán cho công ty
mua bán nợ, chuyển nợ thành vốn góp, ...
2.2. Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
Cùng với việc làm sạch và tái cấu trúc
bảng cân đối kế toán theo hướng lành mạnh,
các công ty CTTC cần phải triển khai các giải
pháp củng cố, chấn chỉnh lại hoạt động nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty và
đáp ứng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế.
Tái cấu trúc hoạt động của các công ty CTTC
bao gồm các nội dung chính:
Thứ nhất, tái cấu trúc về sản phẩm, dịch
vụ. Sản phẩm dịch vụ của công ty bao hàm
toàn bộ các hoạt động mà công ty CTTC
cung ứng cho khách hàng liên quan đến hoạt
động tài chính, cho thuê, tư vấn, thông qua
các kênh phân phối khác nhau nhằm thỏa
mãn mọi nhu cầu dịch vụ tài chính của khách
hàng mà pháp luật cho phép. Danh mục sản
phẩm dịch vụ của công ty càng đa dạng, càng
thỏa mãn nhiều nhu cầu của khách hàng, dễ
dàng thu hút khách hàng, tăng doanh thu,
giúp công ty phát triển ổn định, bền vững.
Chính vì vậy, các công ty CTTC cần phải:
Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động
kinh doanh chính, loại bỏ các lĩnh vực kinh
doanh rủi ro, kém hiệu quả và từng bước
chuyển dịch mô hình kinh doanh của các
công ty CTTC theo hướng giảm bớt sự phụ
thuộc vào hoạt động cho thuê tài chính và
tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ tư
vấn; Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động
ở khu vực có tiềm năng phát triển và giảm
các chi nhánh, điểm giao dịch hoạt động kém
hiệu quả.
Thứ hai, tái cấu trúc về nhân sự. Nguồn
nhân lực ở bất cứ công ty CTTC nào là lợi thế
so sánh quan trọng vì chính con người là yếu
tố “động nhất” trong mọi quá trình sản xuất.
Nguồn nhân lực của công ty CTTC được đánh
giá thông qua hai chỉ tiêu cơ bản là số lượng
lao động và chất lượng nguồn nhân lực. Số
lượng lao động: là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh
nguồn nhân lực của một công ty CTTC. Nếu
số lượng lao động hợp lý ở mỗi chi nhánh, mỗi
điểm giao dịch thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi
để mở rộng các hoạt động kinh doanh cho các
chi nhánh và toàn bộ hệ thống công ty CTTC;
Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn
nhân lực của một công ty CTTC được đánh
giá qua các chỉ tiêu: trình độ học vấn; trình
độ ngoại ngữ; trình độ tin học; các kỹ năng
mềm như giao tiếp, thuyết trình, năng lực giải
quyết các vấn đề phát sinh, tinh thần trách
nhiệm, sự nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp,
kinh nghiệm chuyên môn. Chất lượng nguồn
nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần trong
quá trình chực hiện việc nâng cao năng lực
tài chính của công ty CTTC. Nguồn nhân lực
đồng đều và chất lượng sẽ giúp triển khai các
hoạt động kinh doanh nhanh chóng và hiệu
quả, ngăn ngừa, hạn chế được các rủi ro trong
hoạt động về quy trình, nghiệp vụ và pháp lý.
Vì vậy, không những trong lĩnh vực tài chính
mà hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế đều
xem chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định.
Đặc biệt, bộ máy quản trị ngân hàng cấp cao
lại càng phải có chất lượng vì đây là bộ phận
“đầu não” trong việc xây dựng, hoạch định và
giám sát thực thi các chiến lược ở cả hệ thống
công ty CTTC.
Thứ ba, tái cấu trúc về công nghệ. Công
nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong giai
4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong thời kỳ hội
nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các định chế
tài chính. Theo quy luật, định chế tài chính
yếu sẽ bị thất bại, định chế tài chính mạnh
sẽ giành thế chủ động trên thị trường. Hiện
đại hoá công nghệ ngân hàng bao gồm: Hiện
đại về trang thiết bị, máy móc - Đây là những
yếu tố cốt lõi để tạo ra các sản phẩm, dịch
vụ tài chính tiện ích và an toàn; Hiện đại hoá
công nghệ còn thể hiện ở các quy trình làm
việc. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc
tách rời nhưng cùng hệ thống, Tạo ra sự
phối hợp nhịp nhàng, giảm chi phí nhân lực
cho ngân hàng; Hệ thống kiểm tra, giám sát,
theo dõi thông tin về khách hàng, hệ thống kế
toán, của công ty CTTC đòi hỏi phải có
sự chuẩn xác và hợp lý. Giúp cho các công
ty CTTC chủ động trong việc dự báo, phòng
ngừa và hạn chế rủi ro. Công ty CTTC thuộc
lĩnh vực cung ứng dịch vụ tài chính, hầu hết
các mảng hoạt động của khu vực tài chính đều
gắn liền với việc tiếp nhận và xử lý thông tin.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển bền vững và
có hiệu quả của từng công ty nói riêng và hệ
thống công ty CTTC nói chung. Do đó, hiện
đại hoá công nghệ là một nội dung tất yếu
trong lộ trình tái cấu trúc các công ty CTTC.
Thứ tư, hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt
động. Thông thường cơ cấu tổ chức hoạt động
của các công ty CTTC trước khi tái cấu trúc
thường mang tính chồng chéo và thiếu khoa
học dẫn đến việc điều hành không có hiệu
quả. Bởi vậy, khi tái cấu trúc công ty CTTC,
nội dung về hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt
động công ty CTTC được xem như một tất
yếu. Các nội dung cơ bản khi tiến hành tái
cấu trúc tổ chức và quản lý công ty CTTC:
Rà soát và tái cấu trúc bộ máy tổ chức sao
cho vừa tinh gọn vừa đảm bảo thực hiện hoạt
động của công ty được tiến hành thông suốt,
hiệu quả, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu; Phân
tách giữa chức năng điều hành và chức năng
giám sát để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và
cân bằng về nguồn lực.
2.3. Tái cấu trúc hệ thống quản trị
Vấn đề quản trị công ty đối với hoạt
động của các định chế tài chính đã được Ủy
ban Basel ban hành năm 1999, sửa đổi năm
2006, bao gồm 14 nguyên tắc cơ bản và chia
thành sáu nhóm: Bốn nguyên tắc đầu tiên
quy định rõ trách nhiệm chung, trình độ năng
lực, thông lệ và cơ cấu riêng của Hội đồng
quản trị cũng như cấu trúc công ty; Nguyên
tắc thứ 5 quy định ban điều hành phải đảm
bảo tất cả các hoạt động của công ty phải
phù hợp với chiến lược kinh doanh, mức độ
chấp nhận và chính sách rủi ro đã được Hội
đồng quản trị phê duyệt; Các nguyên tắc từ
6 đến 9 yêu cầu doanh nghiệp phải thiết lập
các hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi
ro hiệu quả. Các rủi ro cần phải được phát
hiện, theo dõi trên phạm vi toàn hệ thống, và
cụ thể cho từng bộ phận kinh doanh. Doanh
nghiệp cần có mạnh lưới truyền thông nội bộ
đối với các rủi ro, Hội đồng quản trị và ban
điều hành phải sử dụng kết quả làm việc của
bộ phận kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên
ngoài một cách có hiệu quả; Nguyên tắc 10
và 11 quy định về chế độ đãi ngộ. Hội đồng
quản trị phải chủ động giám sát việc thiết
lập và thực thi chế độ đãi ngộ, chính sách
đãi ngộ phải gắn liền với quan điểm chấp
nhận rủi ro một cách thận trọng; Nguyên tắc
12 và 13 quy định Hội đồng quản trị và Ban
điều hành tại các công ty có cơ cấu phức tạp
phải nắm vững cơ cấu hoạt động và rủi ro
mà công ty phải đối mặt, phải hiểu rõ và tìm
biện pháp phân tán rủi ro phát sinh; Nguyên
tắc 14 quy định quản trị phải đảm bảo tính
5Tái cấu trúc . . .
công khai và minh bạch đối với cổ đông và
các bên liên quan.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới luôn
biến động khó lường thì quản trị công ty CTTC
càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy,
một trong những trọng tâm của quá trình tái cấu
trúc công ty CTTC Việt Nam là nâng cao năng
lực quản trị công ty của các công ty CTTC, cải
thiện và hướng tới chuẩn mực quốc tế về quản
trị công ty, đảm bảo an toàn, tăng cường tính
minh bạch, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh
và phát triển bền vững.
2.4. Tái cấu trúc sở hữu
Trong lĩnh vực tài chính, sở hữu quyết
định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động
và việc tuân thủ quy định pháp luật của từng
loại hình công ty. Việc thay đổi cấu trúc sở
hữu sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu
tư, hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện trao
đổi kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính,
công nghệ giữa các đối tác, giúp các công
ty CTTC tăng vốn đáp ứng theo yêu cầu của
Chính phủ từ đó góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả,
bền vững cho hệ thống này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng cách tiếp cận tư duy diễn
dịch và tư duy quy nạp để phân tích thực trạng
các công ty CTTC Việt Nam bằng phương
pháp nghiên cứu định tính với thống kê mô
tả, qua đó chứng minh tính tất yếu cần tái cấu
trúc và đề xuất những gợi ý chính sách để thực
hiện tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thực trạng về tài chính
Theo số liệu từ Hiệp hội CTTC tổng dư nợ
CTTC đến 31/12/2014 của 8 công ty CTTC
của Việt Nam là 13.688 tỷ đồng và tổng vốn
điều lệ của 8 công ty là 3.097 tỷ đồng. So với
các nước Châu Á, thì hoạt động CTTC của
Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên,
hoạt động CTTC đã trở thành một trong
những kênh tài trợ vốn trung và dài hạn quan
trọng cho các doanh nghiệp để trang bị, đổi
mới máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất,
khắc phục được những khó khăn, vướng mắc
gặp phải khi các doanh nghiệp vay vốn bằng
tiền ở các tổ chức tín dụng.
Bảng 1. Tình hình tài chính của các công ty CTTC Đơn vị: Triệu đồng
Stt Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
1 Vốn điều lệ 3.097.813 3.097.813 3.097.813
2 Vốn tự có (8.201.470) (9.339.842) (9.939.984)
3 Nguồn vốn huy động 13.405.507 13.152.597 13.194.039
4 Dư nợ 15.540.464 14.687.559 13.688.002
5 Tỷ lệ nợ xấu (%) 52 49 43
6 Lợi nhuận trước thuế (1.620.038) (916.123) (389.444)
Nguồn: Hiệp hội cho thuê tài chính
Cũng theo số liệu từ Hiệp hội CTTC thì
vốn điều lệ trung bình của một công ty CTTC
ở Việt nam là 387 tỷ đồng. Điều đánh nói là
qua số liệu cho thấy vốn tự có của các công
ty CTTC đang ở mức âm trên 8.201 tỷ đồng
năm 2012, 9.339 tỷ đồng năm 2013 và 9.939
tỷ đồng năm 2014, mà điều này tập trung vào
công ty CTTC trực thuộc Agribank và công ty
CTTC trực thuộc tập đoàn Vinashin. Đây là tín
hiệu cho thấy tính kém hiệu quả trong quản lý
tài chính và kinh doanh của các công ty này.
6Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 2. Thực trạng vốn điều lệ và vốn tự có của các công ty CTTC Đơn vị: Triệu đồng
Stt Công ty Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Vốn điều lệ Vốn tự có Vốn điều lệ Vốn tự có Vốn điều lệ Vốn tự có
1 CTTC I
NHNo 200.000 (537.661) 200.000 (557.849) 200.000 (479.568)
2 CTTC II
NHNo 350.000
(8.740.008) 350.000 (9.770.83) 350.000 (10.401.836)
3 CTTC NH
đầu tư 447.813 287.544 447.813 243.224 447.813 277.721
4 CTTC NH
công thương 800.000 823.149 800.000 901.705 800.000 909.581
5 CTTC NH
ngoại thương 500.000 536.543 500.000 576.987 500.000 608.045
6 CTTC SG
thương tín 300.000 326.561 300.000 330.000 300.000 334.378
7 CTTC NH
Á Châu 200.000 218.492 200.000 218.492 200.000 227.512
8 CTTC
Vinashin 300.000
(1.116.090) 300.000 (1.281.56) 300.000 (1.415.817)
Tổng cộng 3.097.813 (8.201.470) 3.097.813 (9.339.84) 3.097.813 (9.939.984)
Nguồn: Hiệp hội cho thuê tài chính
Xét về hoạt động huy động vốn và dư
nợ cho thấy trong thời gian qua mức độ tăng
trưởng về các chỉ tiêu này không đáng kể, chưa
muốn nói là có sự sút giảm nhất là về chỉ tiêu
dư nợ. Điều này cũng dễ hiểu bởi trong thời
gian qua với tác động sụt giảm của nền kinh tế
cũng như áp lực từ việc xử lý nợ xấu các khoản
đã tài trợ cho thuê, nên các công ty CTTC đã
giảm dư nợ cho vay để cấu trúc lại khoản tài trợ
và khắc phục những khoản nợ khó đòi.
Bảng 3. Thực trạng hoạt động huy động vốn và dư nợ của các công ty CTTC Đơn vị: Triệu đồng
Stt Công ty Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Vốn huy
động
Dư nợ Vốn huy
động
Dư nợ Vốn huy
động
Dư nợ
1
CTTC I
NHNo
825.082 1.148.117 700.942 1.318.120 613.368 1.208.347
2
CTTC II
NHNo
6.391.020 6.826.966 5.918.693 5.637.628 5.666.208 4.462.374
3
CTTC NH
đầu tư
2.349.898 2.561.076 2.322.996 2.269.768 2.324.709 2.100.749
4
CTTC
NH công
thương
438.559 1.437.576 651.699 1.566.080 437.421 1.443.362
7Tái cấu trúc . . .
5
CTTC
NH ngoại
thương
1.027.101 1.346.345 1.226.485 1.612.200 1.706.352 2.004.371
6
CTTC SG
thương tín
825.210 964.165 901.159 988.964 991.180 1.236.078
7
CTTC NH
Á Châu
658.677 925.245 542.723 972.934 609.436 947.582
8
CTTC
Vinashin
889.960 330.974 887.900 321.865 845.365 285.139
Tổng cộng 13.405.507
15.540.464
13.152.597 14.687.559 13.194.039 13.688.002
Nguồn: Hiệp hội cho thuê tài chính
Cùng với các chỉ tiêu về dư nợ có giảm trong thời gian qua thì lợi nhuận trước thuế của toàn
ngành công nghiệp CTTC lỗ lên tới 1.620 tỷ năm 2012, có giảm xuống còn 916 tỷ năm 2013
và 389 tỷ đồng năm 2014. Tuy nhiên, lợi nhuận trước thuế âm, cũng chỉ tập trung vào 2 công
ty trực thuộc Agribank và 1 công ty trực thuộc Vinashin. Điều đáng khích lệ là trong bối cảnh
khó khăn của nền kinh tế và mức sụt giảm toàn ngành CTTC thì một số công ty CTTC vẫn hoạt
động kinh doanh có hiệu quả, suất sinh lời cao và nợ xấu giảm đáng kể và hầu như không có.
Điển hình như trường hợp của công ty CTTC ngân hàng Á Châu và công ty CTTC ngân hàng
Sài gòn thương tín. Sở dĩ, có sự thành công này chính là do các công ty đó làm tốt chiến lược
kinh doanh và thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ và không xẩy ra những rủi ro về vận hành
hay rủi ro đạo đức.
Bảng 4. Chất lượng khoản vay và hiệu quả hoạt động của các công ty CTTC Đơn vị: Triệu đồng; %
Stt Công ty
CTTC
Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Tỷ
lệ
nợ
xấu
%
Lợi
nhuận
trước thuế
Tỷ
suất
sinh
lời
(ROE)
%
Tỷ
lệ
nợ
xấu
%
Lợi
nhuận
trước
thuế
Tỷ
suất
sinh
lời
(ROE)
%
Tỷ
lệ
nợ
xấu
%
Lợi
nhuận
trước
thuế
Tỷ
suất
sinh
lời
(ROE)
%
1
CTTC I
NHNo
68 8.661 73 (139.6) 72 87.099
2
CTTC II
NHNo
96 (880.734) 99 (922.6) 100 (603.382)
3
CTTC NH
đầu tư
11 (147.507) 9 27.492 8,48 8 35.581 6
4
CTTC NH
công thương
3 101.258 9,23 2 89.778 7,47 2 83.505 8
5
CTTC
NH ngoại
thương
5 63.958 8,94 4 50.456 6,56 3 53.355 8
8Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
6
CTTC SG
thương tín
1 81.620 18,75 1 74.793 17,00 1 78.104 20
7
CTTC NH
Á Châu
0 70.555 24,22 0 68.896 23,65 5 10.849 4
8
CTTC
Vinashin
98 (917.849) 99 (165.27) 100 (134.555)
Tổng cộng 52 (1.620.038) 49 (916.12) 43 (389.444)
Nguồn: Hiệp hội cho thuê tài chính
Qua số liệu hoạt động của các công ty
CTTC Việt Nam, chúng tôi phân các công ty
CTTC Việt Nam thành 3 nhóm:
Nhóm 1: công ty CTTC thua lỗ kéo dài, có
nguy cơ mất an toàn, vi phạm nghiêm trọng
các quy định an toàn hoạt động ngân hàng
bao gồm: công ty CTTC I Agribank, công ty
CTTC II Agribank.
Nhóm 2: công ty CTTC thuộc các tập
đoàn kinh tế, tổng công ty n