Mục tiêu: Một số nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa hiện tượng tái định dạng mạch máu với biểu
hiện lâm sàng cũng như với đặc tính mảng xơ vữa. Tuy nhiên các nghiên cứu phần lớn thiết kế trên các đối
tượng với mức độ hẹp mạch vành thay đổi. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên nhóm đối tượng với mức độ hẹp
mạch vành trung bình và đánh giá hiện tượng tái định dạng mạch vành trên đối tượng này cũng như mối liên
quan với đặc tính mảng xơ vữa mạch vành bằng kỹ thuật siêu âm nội mạch vành (IVUS).
Phương pháp: Tổng số 215 bệnh nhân được chụp mạch vành có sang thương hẹp trung bình sau đó được
làm siêu âm nội mạch vành. Trên IVUS, diện tích lòng mạch nhỏ nhất, diện tích động mạch toàn bộ, diện tích
động mạch tham khảo trung bình, diện tích mảng xơ vữa, gánh nặng mảng xơ vữa, chỉ số lệch tâm mảng xơ vữa
và chỉ số tái định dạng mạch máu sẽ được đo và tính toán. Tái định dạng được xem là dương tính nếu chỉ số tái
định dạng >1,0 và âm tính nếu ≤ 1,0.
Kết quả: Kiểu tái định dạng dương trong 88 sang thương và kiểu tái định dạng âm trong 127 sang thương.
Không có sự khác biệt về đặc trưng nhân học và yếu tố nguy cơ giữa hai kiểu tái cấu trúc. Hội chứng mạch vành
cấp gặp trong tái định dạng dương nhiều hơn đáng kể so với trong tái định dạng âm, 47,7% vs 8,7%;
OR=9,63;KTC95%:4,56-20,31; p<0,001. Mức độ hẹp, diện tích mảng xơ vữa, và gánh nặng mảng xơ vữa trong
hai nhóm tái định dạng dương và âm lần lượt, 43,29 ± 18,80% vs 50,21 ± 14,31%; p=0,003; 9,40 ± 3,93mm2 vs
7,58 ± 3,29mm2; p<0,001; và 68,95 ± 10,38% vs 63,76 ± 10,27%; p<0,001. Diện tích lòng mạch và mức độ lệch
tâm giữa hai nhóm tái định dạng không khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Hiện tượng tái định dạng dương gặp trong hội chứng mạch vành cấp nhiều hơn trong đau thắt
ngực ổn định. Kiểu tái định dạng dương có diện tích mảng xơ vữa và gánh nặng mảng xơ vữa lớn hơn so với kiểu
tái định dạng âm nhưng sự dãn bù trừ vẫn đảm bảo cho mức độ hẹp lòng mạch ít hơn dù diện tích lòng mạch
giữa hai kiểu tái định dạng như nhau trên các sang thương có mức độ hẹp trung bình.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tái định dạng mạch vành và đặc tính mảng xơ vữa trên siêu âm nội mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 38
TÁI ĐỊNH DẠNG MẠCH VÀNH VÀ ĐẶC TÍNH MẢNG XƠ VỮA
TRÊN SIÊU ÂM NỘI MẠCH
Hoàng Văn Sỹ, Châu Ngọc Hoa*, Võ Thành Nhân**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Một số nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa hiện tượng tái định dạng mạch máu với biểu
hiện lâm sàng cũng như với đặc tính mảng xơ vữa. Tuy nhiên các nghiên cứu phần lớn thiết kế trên các đối
tượng với mức độ hẹp mạch vành thay đổi. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên nhóm đối tượng với mức độ hẹp
mạch vành trung bình và đánh giá hiện tượng tái định dạng mạch vành trên đối tượng này cũng như mối liên
quan với đặc tính mảng xơ vữa mạch vành bằng kỹ thuật siêu âm nội mạch vành (IVUS).
Phương pháp: Tổng số 215 bệnh nhân được chụp mạch vành có sang thương hẹp trung bình sau đó được
làm siêu âm nội mạch vành. Trên IVUS, diện tích lòng mạch nhỏ nhất, diện tích động mạch toàn bộ, diện tích
động mạch tham khảo trung bình, diện tích mảng xơ vữa, gánh nặng mảng xơ vữa, chỉ số lệch tâm mảng xơ vữa
và chỉ số tái định dạng mạch máu sẽ được đo và tính toán. Tái định dạng được xem là dương tính nếu chỉ số tái
định dạng >1,0 và âm tính nếu ≤ 1,0.
Kết quả: Kiểu tái định dạng dương trong 88 sang thương và kiểu tái định dạng âm trong 127 sang thương.
Không có sự khác biệt về đặc trưng nhân học và yếu tố nguy cơ giữa hai kiểu tái cấu trúc. Hội chứng mạch vành
cấp gặp trong tái định dạng dương nhiều hơn đáng kể so với trong tái định dạng âm, 47,7% vs 8,7%;
OR=9,63;KTC95%:4,56-20,31; p<0,001. Mức độ hẹp, diện tích mảng xơ vữa, và gánh nặng mảng xơ vữa trong
hai nhóm tái định dạng dương và âm lần lượt, 43,29 ± 18,80% vs 50,21 ± 14,31%; p=0,003; 9,40 ± 3,93mm2 vs
7,58 ± 3,29mm2; p<0,001; và 68,95 ± 10,38% vs 63,76 ± 10,27%; p<0,001. Diện tích lòng mạch và mức độ lệch
tâm giữa hai nhóm tái định dạng không khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Hiện tượng tái định dạng dương gặp trong hội chứng mạch vành cấp nhiều hơn trong đau thắt
ngực ổn định. Kiểu tái định dạng dương có diện tích mảng xơ vữa và gánh nặng mảng xơ vữa lớn hơn so với kiểu
tái định dạng âm nhưng sự dãn bù trừ vẫn đảm bảo cho mức độ hẹp lòng mạch ít hơn dù diện tích lòng mạch
giữa hai kiểu tái định dạng như nhau trên các sang thương có mức độ hẹp trung bình.
Từ khoá: Tái định dạng mạch vành, siêu âm nội mạch
ABSTRACT
CORONARY ARTERIAL REMODELING AND ATHEROSCLEROTIC PLAQUE
CHARACTERIZATION: AN INTRAVASCULAR ULTRASOUND STUDY
Hoang Van Sy, Chau Ngoc Hoa, Vo Thanh Nhan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 38 - 44
Objectives: Previous studies have demonstrated a correlation between the phenomenon of arterial
remodeling with clinical manifestations as well as atherosclerotic plaque characteristics. However, most studies
have been designed on the patients with different degrees of luminal narrowing. The aim of this study was to
evaluate this relationship on coronary lesions with non-significative stenosis by intravascular ultrasound (IVUS).
Methods: The 215 patients with angiographically moderate stenosis were enrolled in this study and were
* Bộ môn Nội ĐHYD-Tp.HCM ** Bộ môn Lão khoa ĐHYD-Tp.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Hoàng Văn Sỹ ĐT: 0975979186 Email: hoangvansy@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 39
assessed then by intravascular ultrasonography. The remodeling index (RI) was calculated as lesion arterial cross-
sectional area divided by the reference external elastic membrane cross-sectional area. Positive remodeling was
defined as RI >1.0 (PR group) and negative remodeling as RI ≤ 1.0 (NR group).
Results: 88 lesions in PR group and 127 lesions in NR group were enrolled in this study. There were no
significant differences in both groups for baseline demographic and clinical data. Acute coronary syndromes were
observed in PR group more significantly frequently than in NR group, 47.7% vs 8.7%, OR=9.63; 95%CI: 4.56-
20.31; p<0.001. Degree of stenosis, plaque area and plaque burden in both groups, respectively, 43.29 ± 18.80% vs
50.21 ± 14.31%, p=.003; 9.40 ±3.93 mm2 vs7.58 ± 3.29 mm2, p<.001; and 68.95 ± 10.38% vs 63.76 ±10.27%,
p<.001. The minimal luminal area and the eccentricity of the atherosclerotic plaque between the two groups did
not significantly differ.
Conclusion: The positive remodeling phenomenon was observed in acute coronary syndrome more
frequently the in stable angina. In the PR group, plaque area and plaque burden were greater than in the NR
group but the compensatory enlargement of the coronary artery maintaining a degree less narrower, although in
the both groups, luminal area and eccentricity were similar.
Keywords: Coronary arterial remodeling, intravascular ultrasound
GIỚI THIỆU
Vào năm 1987, Glagov và cs (2) đã mô tả hiện
tượng mạch vành lớn phình lên bù trừ theo sự
phát triển của mảng xơ vữa. Hiện tượng này gọi
là sự tái định dạng mạch vành hay hiện tượng
Glagov. Sự tái định dạng mạch vành nhằm duy
trì một kích thước mạch vành trong giai đoạn
đầu của quá trình xơ vữa. Gần đây nhiều nghiên
cứu trên siêu âm nội mạch đã chứng minh sự co
hẹp mạch máu làm lòng mạch hẹp thêm nữa
thay vì dãn bù trừ. Hiện tượng này gọi là tái
định dạng âm tính(11,15).
Một số nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan
giữa hiện tượng tái định dạng mạch máu với
biểu hiện lâm sàng cũng như với đặc tính mảng
xơ vữa(3,8,14,16). Tuy nhiên các nghiên cứu phần lớn
thiết kế trên các đối tượng với mức độ hẹp mạch
vành thay đổi. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
trên nhóm đối tượng với mức độ hẹp mạch vành
trung bình và đánh giá hiện tượng tái định dạng
mạch vành trên đối tượng này cũng như mối
liên quan với đặc tính mảng xơ vữa mạch vành
bằng kỹ thuật siêu âm nội mạch vành.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chọn bệnh nhân
Giữa tháng sáu năm 2008 và tháng một năm
2012, 215 bệnh nhân đồng ý ký bản cam kết
tham gia nghiên cứu được làm siêu âm nội mạch
và chụp mạch vành để đánh giá bệnh mạch
vành tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Tp. Hồ Chí Minh.
Tại thời điểm thủ thuật, các dữ kiện về nhân
chủng học bao gồm tuổi, giới, chiều cao, cân
nặng, diện tích bề mặt cơ thể, yếu tố nguy cơ
bệnh tim mạch được thu thập.
Hình ảnh và phân tích trên chụp mạch
vành
Chụp mạch vành qua da với đường vào
động mạch đùi hay động mạch quay bằng kỹ
thuật Seldinger trong phòng thông tim bằng hệ
thống máy chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền
của hãng Siemen (Đức).
Mạch vành được chụp bằng các ống thông
chẩn đoán qui ước. Thuốc cản quang được bơm
vào động mạch vành qua ống thông và mạch
vành được chụp ở nhiều bình diện khác nhau để
bộc lộ tổn thương rõ nhất, nặng nhất, ít bị chồng
ngắn và không bị che khuất. Kết quả chụp lưu
trữ trên đĩa CD-ROM và xử lý “off-line” bởi
phần mềm QCA (Quantitative Coronary
Analysis) của máy cho phép phân tích và đo kích
thước mạch vành khách quan.
Phần trăm hẹp lòng mạch theo đường kính
sẽ được phần mền QCA tự động tính. Chỉ
những sang thương hẹp trung bình theo đường
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 40
kính, nghĩa là hẹp từ 40-70% đối với các nhánh
mạch vành, riêng thân chung hẹp từ 30-50% mới
được phân tích hình ảnh trên IVUS.
Hình ảnh và phân tích trên siêu âm nội
mạch
Tất cả bệnh nhân sau khi chụp mạch vành có
sang thương hẹp trung bình sẽ được làm siêu âm
nội mạch vành. Thủ thuật siêu âm nội mạch
vành được thực hiện trong phòng thông tim
bằng máy siêu âm nội mạch vành Volcano S5
của hãng Volcano (Mỹ) với đầu dò siêu âm kỹ
thuật số Eagle EyeRGold có tần số 20 MHz của
hãng Volcano. Hình ảnh được lưu lại trên đĩa
DVD. Hệ thống phần mềm cài sẵn trong máy
cho phép vẽ các bờ tự động và tự động đo các
thông số trên IVUS bao gồm đường kính lòng
mạch hay mạch máu, diện tích lòng mạch tại các
đoạn mạch vành.
Trên IVUS, số liệu sẽ được phân tích tại 3 vị
trí thiết diện cắt ngang: vị trí có diện tích lòng
mạch nhỏ nhất của sang thương, vị trí tham
khảo gần và vị trí tham khảo xa. Các thông số đo
đạc bao gồm: diện tích lòng mạch nhỏ nhất trên
sang thương, diện tích động mạch toàn bộ, diện
tích động mạch tham khảo trung bình (trung
bình diện tích động mạch tham khảo gần và xa),
độ dày mảng xơ vữa tối đa và tối thiểu (được đo
bằng độ dày mảng xơ vữa + lớp áo trong tối đa
và tối thiểu, tương ứng với khoảng cách từ bề
mặt mảng xơ vữa tới lớp đàn hồi trong), diện
tích mảng xơ vữa (hiệu số giữa diện tích động
mạch toàn bộ và diện tích lòng mạch), gánh
nặng mảng xơ vữa (tính bằng diện tích mảng xơ
vữa/diện tích động mạch toàn bộ x 100), chỉ số
lệch tâm (tỉ số giữa độ dày mảng xơ vữa tối đa
và độ dày mảng xơ vữa tối thiểu). Sang thương
được xem là lệch tâm nếu chỉ số này ≥ 3.0 và
đồng tâm khi chỉ số này < 3.0; chỉ số tái định
dạng mạch máu (tỉ số giữa diện tích động mạch
toàn bộ của sang thương và diện tích động mạch
toàn bộ tham khảo trung bình). Tái định dạng
được xem là dương tính nếu chỉ số này > 1,0 và
âm tính nếu ≤ 1,0 (Hình 1).
Thống kê
Các số liệu được xử lý theo các thuật toán
thống kê y học bằng phần mềm SPSS 13.0. Dùng
phép kiểm Kolmogorov - Smirnov để khảo sát
xem phân phối có phải phân phối chuẩn hay
không. Các biến định lượng có phân phối chuẩn
được trình bày dưới dạng số trung bình và độ
lệch chuẩn. Nếu phân phối không chuẩn sẽ được
trình bày dưới dạng trung vị và khoảng tứ vị.
Các biến định tính được trình bày dưới dạng tỷ
lệ phần trăm. Để so sánh giữa hai biến định
lượng có phân phối chuẩn chúng tôi dùng phép
kiểm “t”. Nếu phân phối không chuẩn dùng
phép kiểm Mann Whitney. Để so sánh sự khác
biệt giữa các biến định tính, chúng tôi dùng
phép kiểm chi bình phương và hiệu chỉnh theo
Fisher’s exact test.
Hình 1. Kiểu tái định dạng dương (A) và tái định dạng âm (B).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 41
KẾT QUẢ
Đặc trưng dân số
Tổng số 215 trường hợp được phân tích
mảng xơ vữa trên siêu âm nội mạch. Tái định
dạng dương trong 88 sang thương, tương ứng
40,9% và tái định dạng âm trong 127 sang
thương, tương ứng 59,1%. Đặc điểm dân số
trong 2 nhóm tái định dạng được trình bày
trong bảng 1. Không có sự khác biệt về các đặc
điểm nhân học và yếu tố nguy cơ giữa hai
nhóm. Nam giới có sang thương tái định dạng
dương tính nhiều hơn định dạng âm nhưng sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, 80,7% vs
69,3% với p=0,061.
Bảng 1. Đặc trưng dân số nghiên cứu trong hai
nhóm tái định dạng dương và âm.
Đặc điểm TĐD dương
(n= 88)
TĐD âm
(n= 127)
P
Tuổi
60,85 ± 8,83
năm
60,32 ± 10,31
năm
0,691
Giới nam 80,7% 69,3% 0,061
Chỉ số BMI 23,86 ± 3,24 24,10 ± 3,05 0,571
Chỉ số BSA 1,68 ± 0,17 1,68 ± 0,17 0,986
Tăng huyết áp 65,9% 59,1% 0,309
Đái tháo đường 36,4% 29,9% 0,322
Rối loạn chuyển
hóa lipid máu
87,5% 83,5% 0,414
Hút thuốc lá 34,1% 43,3% 0,174
Tái định dạng và biểu hiện lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng của bệnh mạch vành có
liên quan với dạng tái định dạng mạch vành
(Bảng 2). Hội chứng mạch vành cấp gặp trong
tái định dạng dương nhiều hơn đáng kể so với
trong tái định dạng âm, 47,7% vs 8,7%, p<0,001
và nguy cơ có hội chứng mạch vành cấp trong
sang thương có tái định dạng dương gấp 9,84
lần so với sang thương có tái định dạng âm
(OR=9,63; KTC95%: 4, 56-20,31; p<0,001).
Bảng 2. Tái định dạng và biểu hiện lâm sàng của
bệnh mạch vành.
Đặc điểm TĐD dương
(n= 88)
TĐD âm
(n= 127)
P
Hội chứng
mạch vành cấp
47,7% 8,7%
< 0,001
OR=9,63;
KTC95%:4,56-
20,31
Bệnh mạch
vành mạn
52,3% 91,8%
Tái định dạng và đặc tính mảng xơ vữa
Tái định dạng dương có diện tích mảng xơ
vữa và gánh nặng mảng xơ vữa nhiều hơn có
ý nghĩa thống kê so với nhóm tái định dạng
âm tính (Bảng 3). Ngược lại mức độ hẹp của
sang thương có tái định dạng dương ít hơn so
với sang thương có tái định dạng âm với sự
khác biệt rất có ý nghĩa về mặt thống kê, 43,29
± 18,80 mm2 vs 50,21 ± 14,31 mm2 với p=0,003.
Bảng 3. Đặc điểm mảng xơ vữa ở hai nhóm tái định
dạng mạch vành.
Đặc điểm TĐD dương
(n= 88)
TĐD âm
(n= 127)
P
Diện tích lòng mạch
nhỏ nhất (mm
2
)
3,97 ± 1,50 4,01 ± 1,42 0,830
Mức độ hẹp diện tích
(%)
43,29 ± 18,80 50,21 ± 14,31 0,003
Diện tích mảng xơ
vữa (mm
2
)
9,40 ± 3,93 7,58 ± 3,29 <0,001
Gánh nặng mảng xơ
vữa (%)
68,95 ± 10,38 63,76 ± 10,27 <0,001
Mức độ lệch tâm
mảng xơ vữa (mm)
3,11 ± 1,62 3,25 ± 1,59 0,505
Mức độ lệch tâm ở nhóm tái định dạng âm
lớn hơn nhóm tái định dạng dương nhưng sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,505).
Trong nhóm sang thương có tái định dạng
dương, tỉ lệ sang thương lệch tâm là 64,8%,
trong khi ở nhóm tái định dạng âm, tỉ lệ này là
70,9%. Tuy nhiên vẫn không có mối liên quan
giữa kiểu tái định dạng mạch máu với kiểu
phân bố mảng xơ vữa lệch tâm hay không lệch
tâm (p=0,345).
BÀN LUẬN
Tái định dạng động mạch là sự thay đổi
kích thước mạch máu đi kèm với tiến triển
mảng xơ vữa(1,4). Tại một số trung tâm ghép
tim, IVUS và chụp mạch vành kiểm tra một
hoặc nhiều nhánh động mạch vành được thực
hiện thường quy một vài tuần sau ghép tim.
Phần lớn những người cho tim còn trẻ và chết
do chấn thương từ tai nạn giao thông. Mặc dù
trẻ tuổi, mảng xơ vữa quan trọng thường được
phát hiện bằng IVUS trong động mạch vành
của người cho. Trong một nghiên cứu của
Tuzcu và cs(13), hơn nửa số người cho tim với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 42
tuổi trung bình là 32 có ít nhất một vị trí với
độ dày lớp áo trong vượt quá 0,5mm. Đặc biệt,
gần như tất cả những người này đều có hình
ảnh chụp mạch vành bình thường. Vấn đề các
sang thương khu trú hay lan toả không có hẹp
trên chụp mạch vành gây bối rối cho các nhà
tim mạch vẫn xem động mạch vành bị bệnh
như “ống dẫn bị hư”. Tuy nhiên, điều này
dường như không thích hợp đối với động
mạch vành. Năm 1987, nhà bệnh học Seymour
Glagov(2) đã đưa ra một hiện tượng quan trọng
về phát triển sang thương xơ vữa động mạch
vành giai đoạn sớm. Trong một nghiên cứu tử
thiết 136 động mạch vành người, Glagov và cs
mô tả hiện tượng lớn khu trú mạch máu tại vị
trí mảng xơ vữa. Ông thấy có sự tương quan
thuận giữa diện tích màng chun ngoài và diện
tích bị chiếm chỗ bởi mảng xơ vữa (r=0,44,
p<0,0001). Tại các vị trí hẹp diện tích dưới
40%, kích thước mạch máu tăng bù quá mức
sự lắng đọng mảng xơ vữa, làm tăng diện tích
lòng mạch. Với những sang thương nặng hơn
(hẹp diện tích trên 40%), mức độ lớn hay tái
định dạng của động mạch ít rõ ràng hơn làm
giảm diện tích lòng mạch. Từ đó, tác giả đưa
ra giả thuyết hiện tượng tái định dạng biểu
hiện cơ chế bù trừ để duy trì kích thước lòng
mạch. Ngoài giới hạn hẹp 40% diện tích,
đường kính lòng mạch nhỏ dần khi bệnh tiến
triển. Khám phá của Glagov sau đó được xác
định lại bằng IVUS trên người.
Trong những năm gần đây, các nghiên cứu
siêu âm đã chứng minh một khía cạnh mới của
tái định dạng gọi là hiện tượng tái định dạng
âm tính(3,8,11). Tại vị trí sang thương, diện tích
màng chun ngoài thật sự giảm, góp phần làm
hẹp lòng mạch hơn là lớn bù. Khởi đầu được
mô tả trong các sang thương tái hẹp sau can
thiệp mạch vành, tái định dạng âm tính cũng
có thể thấy trong các sang thương hẹp trung
bình của mạch vành tự nhiên. Sự liên quan
giữa tái định dạng dương và âm chưa được
biết. Một giả thuyết đề xuất tái định dạng âm
xuất hiện trong giai đoạn cuối của quá trình xơ
vữa(10,17). Trong giả thuyết này, tái định dạng
dương xuất hiện trong giai đoạn sớm và tái
định dạng âm xuất hiện trong giai đoạn muộn.
Vì vậy tái định dạng âm được quan sát trong
các sang thương hẹp nặng hơn so với các sang
thương hẹp không quan trọng. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, nhóm tái định dạng dương
có mức độ hẹp lòng mạch ít hơn so với nhóm
tái định dạng âm, dù cả hai nhóm có diện tích
lòng mạch như nhau.
Cơ chế của hiện tượng tái định dạng vẫn
chưa rõ(4). Các yếu tố toàn thân và tại chỗ có
thể ảnh hưởng tới hướng tái định dạng mạch
máu. Tauth và cs(12) trong một nghiên cứu trên
67 bệnh nhân đã cho thấy hút thuốc lá có liên
quan tới tái định dạng âm, trong khi tăng
cholesterol máu liên quan tới tái định dạng
dương. Tương tự, Weissman và cs(18) cũng đã
tìm thấy thuốc lá là yếu tố tiên lượng độc lập
hiện tượng tái định dạng âm. Trong một thử
ngiệm lâm sàng trên 101 bệnh nhân có sang
thương hẹp không quan trọng trên chụp mạch
vành được thực hiện bởi Hamasaki và cs(5) cho
thấy điều trị tăng cholesterol máu đã ảnh
hưởng tới hiện tượng tái định dạng dương
qua việc gia tăng diện tích mạch máu toàn bộ.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy
tỉ lệ hút thuốc là trong nhóm có tái định dạng
âm cao hơn trong nhóm tái định dạng dương
và tỉ lệ rối loạn mỡ máu cao hơn trong nhóm
có tái định dạng dương hơn trong tái định
dạng âm nhưng sự khác biệt chưa có ý nghĩa
thống kê. Ishida và cs(7) trong nghiên cứu trên
26 bệnh nhân hẹp mạch vành không đáng kể
và không có yếu tố nguy cơ đã cho thấy tuổi
có liên quan tới diện tích động mạch và diện
tích mảng xơ vữa nhưng không liên quan tới
diện tích lòng mạch. Ngược lại, Hirose và cs(6)
lại cho thấy không có mối liên quan giữa yếu
tố nguy cơ và kiểu tái định dạng mạch vành.
Nghiên cứu chúng tôi cũng cho thấy không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các yếu tố
nguy cơ giữa hai kiểu tái định dạng mạch
vành, ngoại trừ trong nhóm tái định dạng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 43
dương, tỉ lệ giới nam cao hơn có ý nghĩa so với
trong nhóm tái định dạng âm.
Mặc dù cơ chế chính xác của tái định dạng
dương tính và âm tính chưa rõ, hiện tượng
này ảnh hưởng quan trọng đến đánh giá lâm
sàng. Tái định dạng dương tính là một yếu tố
quan trọng trong việc đánh giá thấp độ nặng
của xơ vữa trên chụp mạch vành. Vì vậy,
mạch máu có thể chứa một mảng xơ vữa rất
lớn nhưng hẹp nhẹ nếu tái định dạng mạch
máu lớn bù cho phần tích tụ của mảng xơ vữa.
Kết quả của chúng tôi cũng đã chứng minh
điều này. Các bằng chứng gần đây gợi ý các vị
trí như vậy có xu hướng dễ bị vỡ mảng xơ
vữa. Nói cách khác, tái định dạng dương tính
thường gặp nhiều hơn ở các bệnh nhân không
ổn định và tái định dạng âm tính thường gặp
ở bệnh nhân ổn định. Schoenhagen và cs(9)
đánh giá bằng IVUS trên 86 bệnh nhân đau
thắt ngực không ổn định và 46 bệnh nhân đau
thắt ngực ổn định cũng đã cho thấy hiện
tượng tái định dạng dương và diện tích mảng
xơ vữa lớn hơn có liên quan tới đau thắt ngực
không ổn định, trong khi tái định dạng âm thì
thường gặp hơn trong đau thắt ngực ổn định.
Sự kết hợp giữa mức độ tái định dạng và biểu
hiện lâm sàng có thể phản ánh một khuynh
hướng lớn hơn của mảng xơ vữa với tái định
dạng dương gây hội chứng mạch vành cấp.
Jeremias và cs(8) trong một nghiên trên 23 bệnh
nhân hội chứng mạch vành cấp và 23 bệnh
nhân đau thắt ngực ổn định đã cho thấy tái
định dạng dương trong nhóm không ổn định
là 65% trong khi chỉ có 9% trong nhóm đau
thắt ngực ổn định (p<0,001).
KẾT LUẬN
Kiểu tái định dạng mạch vành có liên quan
với biểu hiện lâm sàng. Hiện tượng tái định
dạng dương gặp trong hội chứng mạch vành
cấp nhiều hơn trong đau thắt ngực ổn định.
Kiểu tái định dạng dương có diện tích mảng
xơ vữa và gánh nặng mảng xơ vữa lớn hơn so
với kiểu tái định dạng âm nhưng hiện tương
dãn bù trừ vẫn đảm bảo cho mức độ hẹp lòng
mạch nhỏ hơn dù diện tích lòng mạch giữa hai
kiểu tái định dạng như nhau trên các sang
thương có mức độ hẹp trung bình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burke AP et al (2002), "Morphological predictors of