Tài liệu nhập môn lịch sử triết học

Triết học là một thành tốrất cổcủa văn hóa tinh thần, là trí tuệlà trí tuệcủa loài người và không dễgì nhận thức được nó. Cái khó trong việc nắm bắt kết học trước hết bịquy định bởi diện rộng tới mức tối đa các khái niệm triết học. Tính đa nghĩa của phần lớn các khái niệm ấy luôn gây khó cho sựhiểu biết vềnội dung của chúng, vềmối quan hệqua lại giữa chúng với nhau và giữa chúng với các khái niệm triết học khác, cũng nhưvai trò của chúng đối với đời sống con người.

pdf19 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu nhập môn lịch sử triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu nhập môn lịch sử triết học Phần 1 "Nhập môn lịch sử triết học" của nhà nghiên cứu lịch sử triết học nổi tiếng, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa Triết học, Đại học Tổng hợp Quốc gia Mátxcơva mang tên M.V.Lômônôxốp - V V. Xôcôlốp - đã được sử dụng như một giáo trình cho sinh viên khoa triết học của các trường đại học tổng hợp thuộc Liên bang Nga. Trong cuốn sách này, Giáo sư, Tiến sĩ V. V. Xôcôlốp đã đưa ra một quan niệm mới về triết học với tư cách lịch sử triết học mà có ý kiến cho là còn xuất sắc hơn cả quan niệm của Cantơ và Hêghen. Không chỉ thế, trong cuốn sách này, ông còn đưa ra quan điểm coi lịch sử triết học như là triết học trong quá trình phát triển lịch sử của nó và nhiều tư tưởng độc đáo liên quan đến tính đặc thù của tri thức triết học, đến nhận thức triết học và lịch sử của nó. Ngay sau khi ra mắt độc giả, cuốn sách này đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét phê bình của các học giả có tên tuổi. Tạp chí "Những vấn đề triết học" (Nga) đã tổ chức một Hội thảo khoa học với tiêu đề "Triết học với tư cách lịch sử triết học". Nội dung của Hội thảo này đã được đăng tải trên một loạt số Tạp chí Triết học trong năm 2007. Ban biên tập Tạp chí Triết học đã nhận được nhiều ý kiến hoan nghênh và đề nghị cho đăng toàn văn nội dung cuốn sách của Giáo sư, Tiến sĩ V. V.Xôcôlôp - "Nhập môn lịch sử triết học". Đáp ứng nguyện vọng này của đông đảo độc giả Việt Nam, bắt đầu từ số này, Tạp chí Triết học sẽ cho đăng tải bản dịch toàn văn cuốn sách của Phó giáo sư, Tiên sĩ Trần Nguyên Việt Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Hữu Toàn (hiệu đính) như một tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học, nhất là lịch sử triết học ở nước ta. Toà soạn Tạp chí Triết học hy vọng nhận được nhiều ý kiến trao đổi của đông đảo độc giả để có được bản dịch hoàn hảo và những ý kiến trao đổi về các vấn đề đặt ra trong cuốn sách này. Thế giới quan và triết học với tư cách những hiện tượng chung nhất của văn hóa tinh thần Triết học là một thành tố rất cổ của văn hóa tinh thần, là trí tuệ là trí tuệ của loài người và không dễ gì nhận thức được nó. Cái khó trong việc nắm bắt kết học trước hết bị quy định bởi diện rộng tới mức tối đa các khái niệm triết học. Tính đa nghĩa của phần lớn các khái niệm ấy luôn gây khó cho sự hiểu biết về nội dung của chúng, về mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau và giữa chúng với các khái niệm triết học khác, cũng như vai trò của chúng đối với đời sống con người. Phương pháp quan trọng nhất, nếu không nói đó là phương pháp cơ bản về hiệu quả của việc nghiên cứu các khái niệm triết học, chính là việc nghiên cứu lịch sử triết học từ khi nó mới phát sinh. Một khoa học càng chính xác bao nhiêu và thêm nữa, nó lại được toán học hóa, thì đòi hỏi phải tìm hiểu sự phát triển trước đó của nó càng nhẹ hơn. Ngược lại, việc nghiên cứu các khoa học xã hội - nhân văn lại không thể thiếu những am hiểu căn bản về lịch sử trước đó của chúng. Việc làm rõ chính các hệ vấn đề triết học trên thực tế đã cho thấy, hoàn toàn không thể thiếu tri thức về toàn bộ lịch sử trước đây của nó. Chúng ta đã có rất nhiều định nghĩa về triết học. Đó là những định nghĩa chung, cụ thể và mang tính ẩn dụ. Các định nghĩa ấy đã định hình được sự đa dạng về việc giải thích triết học mà các học giả đưa ra, trong đó có một số học giả sẽ được chúng tôi dẫn ra trong cuốn sách này tùy theo văn cảnh trình bày. Trước hết, chúng tôi xin nhắc lại rằng, triết học hoàn toàn mang tính khái quát, kể cả trong trường hợp nó tác động qua lại với các thành tố khác của văn hóa tinh thần - trí tuệ, tức là với tôn giáo và thần luận với tư cách phương diện "lý luận" của nó, xuất hiện khi triết học còn chưa ra đời, với nghệ thuật và sự suy ngẫm về nghệ thuật (xuất hiện trong chính triết học), với khoa học và những thành tố khác. Sự tương đồng của các hình thái thế giới quan thể hiện tính đa diện của đời sống con người đã gây khó khăn lớn cho việc định nghĩa triết học. Sự tương đồng ấy có thể và cần phải hiểu với tư cách một khoa học phức tạp nhất về con người (điều được đề cập tới bằng chính thuật ngữ Hy Lạp cổ là "yêu mến sự thông thái"), với tư cách con người hành động và tư duy, còn khi xét trong vô vàn các phương diện khác nhau thì đó là sinh thể có tinh thần và thể xác. Xuất phát từ điều nói trên, hoàn toàn có thể hiểu đối tượng của triết học như là tổng hòa các mối quan hệ chủ - khách thể. Các thuật ngữ "chủ thể" và "khách thể" bằng tiếng La tinh đã xuất hiện trong Triết học Kinh viện Tây Âu thời kỳ Trung cổ và hiện nay, nghĩa của chúng đã được thừa nhận một cách phổ biến - tối đa như các quan hệ nhận thức - thực tế của con người trong tính hiện thực đối lập với nó là tự nhiên và xã hội, thể hiện những nhu cầu và hoạt động của trí óc, của trái tim và của thân xác con người. Dĩ nhiên, một định nghĩa như vậy về triết học có thể được coi là hoàn toàn thích hợp cho cả thế giới quan vốn không thể tách rời triết học, bởi nó quá chung, quá rộng, song, như chúng ta đã thấy, ngay từ khi xuất hiện các mối quan hệ nói trên thì những ý niệm của các nhà triết học và thậm chí, của nhiều nhà tư tưởng vốn không cho mình là những nhà triết học, về nguyên tắc, vẫn được hàm chứa trong công thức đó. Chúng tôi không muốn đặt ra một góc nhìn cho trước đối với việc nghiên cứu tiếp theo về hệ vấn đề triết học mà các nhà triết học đã trình bày. Ở đây, chúng tôi muốn chỉ ra rằng, trong triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX, hệ vấn đề đó đã được nghiên cứu với quy mô đặc biệt sâu rộng. Một trong, những nhà sáng lập nền triết học đó là Iôganơ Phích tơ, người đã chú trọng đến việc suy xét hệ vấn đề đạo đức xã hội và luôn đặt đối lập chủ thể người "cái Tôi" (và cả "cái Tôi") với tổng hòa các khách thể mâu thuẫn với nó - "cái Không- tôi". Khi chứng minh cho sự khẳng định dứt khoát của mình về xuất phát điểm là "cái Tôi" và cũng là để hiểu cho đúng mọi "cái Không - tôi", Phích tơ đã xác định lập trường của mình đứng về phía "chủ nghĩa duy tâm", đối lập với lập trường của "chủ nghĩa giáo điều" (hay là "chủ nghĩa duy vật"). C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi Phíchtơ là một trong những bậc tiền bối của mình, nhưng các ông lại thay đổi thái độ đó, đồng thời khẳng định rằng, một lập trường đúng đắn duy nhất, phù hợp với toàn bộ lịch sử thực tiễn và phát triển của loài người về triết học và khoa học là chủ nghĩa duy vật, bởi nó giải thích tinh thần con người như một hiện tượng phái sinh và thứ phát so với vật chất. Do vậy, toàn bộ lịch sử triết học được chủ nghĩa Mác diễn tả như là sự đối lập và đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thế nhưng, sự gián đoạn mang tính nhị nguyên hóa đã quá nhấn mạnh "con người đang sống như một sinh thể tinh thần - thể xác và thể xác tinh thần. Khác với tính phổ biến đến tối đa của vật chất và tinh thần, được đặt đối lập với nhau trong "tính thứ nhất" và "tính thứ hai", mối quan hệ chủ - khách thể là sự thừa nhận sự thống nhất giữa hai mặt của con người - tinh thần và thể xác như một sinh thể hiện thực có nhận thức. Thật vậy, khi chú ý đến vai trò to lớn của các khoa học, đến sự tác động qua lại của chúng với triết học để tạo nên yếu tố cấu thành quan trọng về đối tượng nghiên cứu, chúng ta cần phải lưu ý rằng, để phân tích vai trò đó trong nghiên cứu chuyên sâu của các khoa học về tự nhiên, trong việc nghiên cứu theo lối quy giản về tự nhiên thì dường như, lại cần phải phân tách chủ thể ra khỏi khách thể để không những nắm bắt được chúng trong sự thống nhất, mà cả trong sự phân chia nữa. Đồng thời, khách thể tự nhiên cũng trở nên rõ ràng hơn đối với con người, mở ra cho con người khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các yếu tố cấu thành hiện thực khách quan tồn tại không phụ thuộc vào con người. Trên trục đường chính ấy luôn xuất hiện và phát triển một hiện tượng đặc biệt của nền văn minh - đó là cái trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên, là khách thể mới và phức tạp hơn nhiều, là hiện thực chủ - khách thể. Cùng với sự phát triển của nền văn minh, lĩnh vực tinh thần của chính con người và nền văn hóa của nó cũng được phát triển, trong đó nhiều yếu tố cấu thành và bộ phận hợp thành của nó có thể được luận giải như là những khía cạnh của triết học. Để cụ thể hóa tính chủ - khách thể của lĩnh vực tinh thần, về nguyên tắc, cần phải nhấn mạnh rằng, triết học là một hệ thống khá phức tạp của tri tín (tín ngưỡng và tri thức), luôn thể hiện bản chất nhận thức - chân thực của đời sống con người mà ở đó, thường có sự đan xen giữa các yếu tố cấu thành tín ngưỡng và tri thức trong các mối quan hệ qua lại khác nhau. Dĩ nhiên, ở đây không đề cập đến riêng niềm tin tôn giáo - tín ngưỡng mà tính nhất quyết tuyệt đối trong các giáo điều của niềm tin ấy đã đạt tới đỉnh điểm trong nguồn gốc thần luận về thuyết đơn thần của Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và các tôn giáo khác. Với nội dung đầy đủ và được suy ra từ các kinh thánh, những giáo điều ấy đã có trước mọi "tri thức", trước hết là đối với "tri thức" tôn giáo. Béctơrăng Rátxen đã rất thành công khi xác định bản chất của triết học như là tri tín trong phần Nhập môn "Lịch sử triết học phương Tây", đồng thời giải thích lĩnh vực trung gian như là "vùng đất hoang” nằm giữa thần học và khoa học mà cả hai đều tấn công "mảnh đất ấy" từ hai phía đối lập nhau, nhưng không bao giờ đụng độ nhau. Chỉ có niềm tin thế giới quan triết học mới được đặc trưng bởi tính đầy đủ về mặt nhận thức luận, nhận thức lý luận, song nếu thiếu trình độ nhất định về tri thức, niềm tin đó cũng sẽ bị mất ý nghĩa về mặt chức năng. Phương diện nhận thức khoa học của triết học lại đòi hỏi một định nghĩa khác cho nó, đó là định nghĩa bổ sung chứ không phải là loại bỏ định nghĩa trước đó. Định nghĩa đó, theo tín niệm của tác giả, phải được coi là một định nghĩa về thế giới quan đã được hệ thống hóa ở mức độ cao nhất, được duy lý hóa đến tối đa trong thời đại của nó. Trong tổ hợp tri tín, chính khoa học lại quy định nội dung của yếu tố cấu thành thứ hai. Ngoài ra, để làm rõ một định nghĩa đã được hình thành, cần phải vạch ra ý nghĩa của cụm từ "thế giới quan" vốn đa nghĩa và rất rộng trong tiếng Đức và tiếng Nga. Trong các tài liệu triết học Đức thuật ngữ "thế giới quan" (Weltanschauung) xuất hiện vào thế kỷ XVIII (còn trong ngôn ngữ Nga, nó xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX). Trên phương diện triết học, thế giới quan được đặc trưng bởi tính xác định và tính hệ thống ở mức độ thấp hơn, khi nó được sử dụng trong các văn cảnh khác nhau. Người ta thường nói đến các thế giới quan: tôn giáo nghệ thuật, đạo đức, khoa học tự nhiên theo nghĩa các thế giới quan này, xét về mặt hệ thống, thể hiện các tín niệm ít được luận chứng (hoặc hoàn toàn không được luận chứng) và còn lâu, mới dựa trên tính đầy đủ về sự kiện. Ở đây, cả thuật ngữ "duy lý hóa" cũng cần phải được làm rõ. Trong những điều kiện của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, triết học đã xuất hiện đồng thời với các khoa học khác. Vào thời kỳ Trung cổ, triết học thường được đồng nhất với tổng hòa các khoa học các nền nghệ thuật tự do"), mặc dù ở giai đoạn đê trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, toán học, thiên văn học và thậm chí, cả những nhận thức kinh nghiệm (vốn được xem là đặc thù của thời đó) về địa lý, văn học, nhất là y học, đã phát triển ngoài văn cảnh triết học. Trong tư liệu triết học phương Tây và của Nga, chúng ta cũng thường thấy những nhận định cho rằng, trong quá trình phát triển của văn hóa trí tuệ đã có các khoa học cụ thể khác nhau được tách ra từ triết học. Vả lại, triết học chưa bao giờ là cha đẻ của khoa học cả, nhưng nó đã từng xuất hiện và được phát triển trong mối liên hệ mật thiết với các khoa học: Triết học và các khoa học đã cùng nhau tạo nên những bộ phận cấu thành quan trọng nhất của sự duy lý hóa. Do vậy, cần phải nói rằng, về căn bản, chúng ta cần phải hiểu các khoa học trong sự tác động qua lại của chúng với triết học thời cổ đại, kể cả các hình thức tác động khác trong những thời đại tiếp theo, như toán học và các tri thức khoa học tự nhiên. Vào thời cổ đại, các khoa học đã phát triển một cách riêng lẻ, sự liên kết giữa chúng chúng chỉ diễn ra vào thời Cận đại, thời đại của Galilê, Đêcáctơ và Niuton, khi mà các khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, nhiều nhà nghiên cứu khoa học, thậm chí cả những nhà triết học, đã giải thích thời đại đó như là sự khởi đầu của riêng tri thức khoa học. Song, đó là quan niệm giản đơn, không thể chấp nhận được đối với nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Trên thực tế, cần phải định nghĩa khoa học vốn được hiểu trong tính chỉnh thể của nó như một tri thức đã được chuyên môn hóa mà trước hết, công dụng của nó về mặt thực tiễn là sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của con người. Đồng thời, cần phải kết nối khoa học với quá trình phát triển và tổ chức lao động trí óc trong sự tác động qua lại của nó với lao động chân tay. Chỉ có trên cơ sở đó, mới có thể phát huy được tính năng động của cả hai nhân tố này trong khoa học. Cùng với đó là phương pháp kinh nghiệm thực tiễn - kinh nghiệm cảm tính mà chúng ta thường sử dụng trong quá trình sáng tạo các tri thức thực tiễn hơn có và bền vững - các tri thức đó được củng cố trong bộ nhớ của loài người. Nhân tố này là vốn có đối với loài người ngay từ thời tiền sử, tiền văn minh, về nguyên tắc, nó vẫn là nhân tố quy định ngay cả trong những điều kiện của các nền văn minh cổ đại Ai Cập và Babilon, nơi mà toán học, thiên văn học và y học rất phát triển (đó là khoa học kinh nghiệm cảm tính trong số các khoa học tự nhiên, và như chúng ta đã thấy, hiện vẫn còn tiếp tục phát triển). Song, như chúng ta đều biết, chỉ có ở Hy Lạp cổ đại mới có sự xuất hiện và phát triển lý thuyết - diễn dịch của từ thức khoa học trong các trường phái triết học. Do lệ thuộc trực tiếp vào nhân tố này mà lôgíc học mới ra đời trong chính triết học Hy Lạp cổ đại. Thiếu lôgíc học sẽ không thể có bất kỳ một sự duy lý hóa nào cả. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn không thể quy lôgíc học về sự tác động của nó tới việc xuất hiện tri thức khoa học, cũng như tới sự phát triển tiếp theo của triết học. Sự tiến bộ của đời sống kinh tế (đặc biệt là sự xuất hiện của tiền tệ), sự ra đời của pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ tài sản của con người cũng như một số nhân tố khác của nền văn minh đã mở rộng và làm sâu sắc thêm khuynh hướng duy lý hóa. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh nhân tố duy lý hóa, chúng ta không được phép bỏ qua tính huyền diệu của vô vàn các hiện tượng tự nhiên và các khách thể của tri thức, đặc biệt là trong thời kỳ Cổ đại - thời kỳ mà triết học xuất hiện, và hơn thế nữa là tính huyền bí về sự xuất hiện của con người. Chúng ta cũng không được phép bỏ qua tính vô cùng phức tạp của bản chất con người mà yếu tố trí tuệ cấu thành của nó không phải bao giờ cũng mang tính chủ đạo. Phương diện này của sinh thể người và hoạt động nhận thức của con người được thể hiện rõ khi xác định triết học như một hệ thống tri tín. Như chúng ta đều biết, triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện trong điều kiện mà ở đó, một tổ Triết gia Platon hợp của sự duy lý hóa dường như đã trở nên đầy đủ cho quá trình này. Đó trước hết là xuất hiện của các ý niệm về nhận thức luận, về bản thể luận, nhân bản học và đạo đức - xã hội; sau đó là các hệ thống duy lý vĩ đại của Platôn và Arixtốt vào thời kỳ được gọi là cổ điển ở trình độ cao của nền văn hóa ÊLê. Và, ngay cả ở một trong những trường phái triết học đầu tiên là Pitago, thì các nhà triết học của trường phái này cũng vẫn vấp phải những khó khăn không thể giải quyết được bằng lôgíc học khi xem xét một số yếu tố hình học (đó là điều mà họ đã cố giấu đi). Về sau, vào thời kỳ hậu cổ điển, khuynh hướng nhà triết học hoài nghi - Phòng đã phủ nhận hoàn toàn khả năng xuất hiện của tri thức xác thực. Các ý niệm phi duy lý không chỉ làm mất khả năng, mà còn thu hẹp quy mô của triết học duy lý hóa, trước hết là về phương diện kiến giải hiện tượng con người. Các ý niệm đó đã thâm nhập vào triết học, đặc biệt là từ phía mềm tin tôn giáo, từ các tín niệm Hy Lạp cổ đại và sau đó, ngày càng nhiều hơn từ các vùng Trung Cận Đông. Hệ thống đơn thần vĩ đại của Thiên Chúa giáo đã được một số ý niệm sơ cấp của triết học Hy Lạp cổ đại tiếp thu và do vậy, các yếu tố phi duy lý của nó đã xuất hiện ngày một mạnh mẽ. Ở đây, sự đối lập giữa phi duy lý và duy lý đã có sự gia tăng đáng kể, trước hết là từ nhân tôn ý chí - nơi cấu thành lĩnh vực hoạt động cảm giác của con người và không lệ thuộc vào sự chỉ đạo của trí óc với tư cách trung tâm của những năng lực và khả năng trí tuệ. Một hình thức cực đoan của thuyết phi duy lý tôn giáo là thần học đã xuất hiện, khi nhấn mạnh tính tuyệt đôi không thể nhận thức được về phương diện sinh thể của các vị thần mang nhân cách mà con người, khi đối thoại với các thần này cũng trở nên huyền bí như vậy từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình. Những thành tựu công nghệ và những thành tựu khác của nền văn minh nhân loại đã tìm cho bản thân mình sự phản ánh trong các ý niệm duy lý và trong các hệ thống triết học Tây Âu thời Cận đại. Sự toàn diện nhất và vĩ đại nhất trong số các ý niệm và hệ thống đó đã xuất hiện ở Đức vào thế kỷ XVIII - XIX, trong các tác phẩm của Cantơ, Phíchtơ, Seling và Hêghen. Song hành với điều đó là sự gia tăng các mặt đối lập của chính nền văn minh nhân loại. Đặc biệt, nhận thức của một số nhà triết học Đức về tính phức tạp, đa dạng của đời sống và tinh thần con người (và không chỉ riêng họ) đã làm nảy sinh các ý niệm phi duy lý, đồng thời làm cho các hệ thống triết học phi duy lý phát triển. Học thuyết có ảnh hưởng khá mạnh trong số đó là học thuyết của Sôpenhauơ (1788 - 1860). Ngược lại với ý niệm căn bản của nhà phiếm lôgíc Hê ghen về lý tính thế giới văn hướng sự phát triển của văn minh và văn hóa vừa tầm với trình độ hiểu biết của các nhà triết học, Sôpenhauơ đã đưa ra ý niệm đối lập với ý chí mù quáng và tự tại mà người ta vẫn thường sử dụng để biện luận cho tính bí ẩn của tồn tại và tính phi duy lý của đời sống con người. Toàn bộ khuynh hướng đó dường như là của nền triết học Đức vốn được mệnh danh là "triết học đời sống" (thuật ngữ này đã từng xuất hiện vào thế kỷ XVIII). Nhà tư tưởng lớn nhất và khá nổi tiếng của khuynh hướng đó là diễn giả tài ba Nítsơ (1844 - 1900). Đặc điểm nổi bật của triết học đời sống là sự hạ thấp bằng mọi cách năng lực trí tuệ và khả năng của con người, đồng thời nhấn mạnh những thiếu sót về nhận thức của lý tính - cái dường như là sức mạnh không gì lay chuyển nổi của lôgíc học. Nhà tư tưởng Pháp Bécxông (1859 - 1941) cũng đã phát triển triết lý khá mạnh mẽ đó theo khuynh hướng nói trên. Một nhà lý luận nổi tiếng của "triết học đời sống" - nhà triết học Đức Vinhem Đintây (1833 - 1911) đã được xem là học giả có trình độ hiểu biết nhiều về lịch sử triết học, là tác giả của nhiều tác phẩm thơ ca và các công trình tâm lý học. Ở một trong những tác phẩm lớn nhất của mình là Nhập môn tinh thần khoa học (1883), ông đã đặt đối lập khoa học nhân văn với tư cách khoa học được con người biết đến khá nhiều với các khoa học tự nhiên. Theo ông, con người, với những mức độ xác tín khác nhau, cũng chỉ giải thích được những hiện tượng rời rạc của tự nhiên mà thôi. Chủ thể trong sự nhận thức tự nhiên đã hội tụ trong nó tất cả những điều mà ông quan tâm, lại được ông đặt đối lập với chính khách thể tự nhiên bên ngoài. Trong hiện tượng đặc biệt của ý thức con người, đối với ông, cái xác định không phải là quá trình nhận thức trong sự tác động của nó với thế giới khách quan bên ngoài, mà là áp lực đối với sự trải nghiệm tâm lý, ý chí, cảm xúc, bản năng, v.v.. Tính chỉnh thể của nhận thức được thể hiện trong các nhân tố đa dạng của kinh nghiệm bên trong, được liên kết bởi khái niệm "đời sống", tức là khái niệm mà về căn bản, đ