Thu nhập là một phạm trù trừu tượng. Để hiểu rõ về thu nhập, ta có thể tìm hiểu chung về một số đặc điểm của thu nhập:
- Thu nhập luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế, xã hội - thể hiện tính sở hữu của thu nhập.
- Thông thường việc xác định thu nhập của chủ thể khác nhau trong môt thời gian nhất định được biểu hiện dưới hình thức giá trị - là hình thức thông qua đó có thể biết được tổng số thu nhập từ các nguồn khác nhau của một cá nhân hay một pháp nhân khác.
55 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu thuế thu nhập doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp
1. Khái niệm
Thu nhập là một phạm trù trừu tượng. Để hiểu rõ về thu nhập, ta có thể tìm hiểu chung về một số đặc điểm của thu nhập:
- Thu nhập luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế, xã hội - thể hiện tính sở hữu của thu nhập.
- Thông thường việc xác định thu nhập của chủ thể khác nhau trong môt thời gian nhất định được biểu hiện dưới hình thức giá trị - là hình thức thông qua đó có thể biết được tổng số thu nhập từ các nguồn khác nhau của một cá nhân hay một pháp nhân khác.
- Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân.
Qua các đặc điểm trên, có thể đưa ra khái niệm chung về thu nhập:
Thu nhập là những khoản thu dưới dạng tiền tệ hoặc hiện vật của các tổ chức hoặc cá nhân nhận được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, từ lao động, từ quyền sở hữu quyền sử dụng về tài sản, tiền vốn mà có hoặc các khoản thu nhập khác mà xã hội dành cho trong một thời kỳ nhất định thường là một năm.
Căn cứ vào tiêu thức khác nhau người ta chia ra các loại thu nhập nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý khác nhau như thu nhập công ty, thu nhập cá nhân, thu nhập thường xuyên, thu nhập không thường xuyên, thu nhập từ lao động và các thu nhập khác.
Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các tổ chức và cá nhân. Thuế thu nhập gồm có thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN) là một loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của cơ sở sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Tuy nhiên, không phải toàn bộ thu nhập của cơ sở sản xuất kinh doanh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế TNDN. Thuế TNDN chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Vì việc đánh thuế vào loại thu nhập nào, đánh nặng hay đánh nhẹ vào từng loại thu nhập là tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi Nhà nước về điều tiết thu nhập qua thuế thu nhập, phụ thuộc vào khả năng quản lý thuế, chi phí quản lý thuế cũng như mục tiêu của thuế thu nhập phải đạt được để góp phần thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
2. Đặc điểm thuế Thu nhập doanh nghiệp
- Thuế TNDN là một loại thuế trực thu. Tính chất trực thu của loại thuế này được biểu hiện ở sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế.
- Thuế TNDN đánh vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, bởi vậy mức động viên vào NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Vai trò của thuế TNDN
3.1 Thuế TNDN là khoản thu quan trọng của NSNN
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong những loại thuế trực thu. Nó và thuế thu nhập cá nhân chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu Ngân sách Nhà nước. Ở các nước phát triển hai loại thuế chủ yếu này đã làm cho thuế trực thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách nhà nước. Ví dụ như Mỹ: thuế trực thu chiếm 74,8%, Nhật Bản là 74%. Hầu hết các nước có thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp thì thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thuế ngân sách; ví dụ như: Philipin chiếm 60%; Thái Lan chiếm 66%; Ấn Độ 63%; Kênia: 61%; Gana: 65%...
Ở Việt nam, tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp trong tổng số thu Ngân sách Nhà nước (trừ dầu thô) năm 2004 là 24%; năm 2005 là 24, 5%, năm 2006 là 24,1%.
Tuy nhiên, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao sẽ tạo ra nguồn thu về thuế TNDN ngày càng lớn cho NSNN.
3.2 Thuế TNDN là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Nói cách khác, thuế phải góp phần khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển theo định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Nhà nước ban hành một hệ thống pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng chung cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy, với các doanh nghiệp cùng sản xuất một mặt hàng như nhau, cùng bán giá bán trên thị trường như nhau, nếu cơ sở sản xuất nào càng hạ thấp được giá thảnh sản phẩm, càng thu được nhiều lợi nhuận thì càng phát triển mạnh, và ngược lại thì dễ dẫn tới bị phá sản.
- Thông qua việc xác định phạm vi thu thuế và không thu thuế, Nhà nước thể hiện sự ưu đãi của mình đối với một số đối tượng trong xã hội không phải nộp thuế hoặc thể hiện sự khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển của một lĩnh vực ở một vùng nào đó.
- Ngoài việc quy định thuế suất chung cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, Nhà nước cũng đưa ra thuế suất ưu đãi để áp dụng đối với từng ngành nghề, mặt hàng, lĩnh vực thể hiện mức độ khuyến khích hay không khuyến khích của Nhà nước đối với những ngành nghề, mặt hàng, lĩnh vực đó trong nền kinh tế.
- Không những chỉ khuyến khích đầu tư bằng việc định ra một thuế suất hợp lý, mà thuế thu nhập doanh nghiệp còn được sử dụng là một biện pháp khuyến khích bỏ vốn đầu tư vào các ngành nghề, mặt hàng, các vùng mà Nhà nước cần tập trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, khai thác tiềm năng về vốn trong dân cư và của các nhà đầu tư nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn, rủi ro để phát triển sản xuất bằng việc sử dụng biện pháp miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức độ khác nhau.
3.3 Thuế TNDN là một công cụ của Nhà nước thực hiện chính sách công bằng xã hội
Một trong những mục tiêu của thuế thu nhập doanh nghiệp là điều tiết thu nhập, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập xã hội. Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, không những đảm bảo bình đẳng công bằng về chiều ngang mà còn cả công bằng về chiều dọc. Về chiều ngang, bất kể một doanh nghiệp nào kinh doanh bất cứ hình thức nào nếu có thu nhập chịu thuế thì phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Về chiều dọc, cùng một ngành nghề không phân biệt quy mô kinh doanh nếu có thu nhập chịu thuế thì đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Với mức thuế suất thống nhất, doanh nghiệp nào có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều hơn (theo số tuyệt đối) doanh nghiệp có thu nhập thấp.
II. Một số nội dung cơ bản của thuế TNDN:
1. Đối tượng nộp thuế:
Về nguyên lý chung thì tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế đều thuộc đối tượng nộp thuế TNDN.
Tuy nhiên, để thu thuế thu nhập, các nước chú trọng đến việc phân loại công ty hoạt động dưới hình thức nào. Các nước do các hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nên đã quy định cụ thể một hoạt động kinh doanh trước khi tiến hành phải thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo luật kinh doanh tương ứng. Trên cơ sở các quy định về pháp lý, tên gọi, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu, các sáng lập viên… mà đã định ra 2 hình thức thu thuế thu nhập thích hợp. Nhìn chung các nước đều quy định thu nhập của một pháp nhân kinh doanh phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu nhập của thể nhân kinh doanh hoặc cá nhân không kinh doanh phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
2. Cơ sở tính thuế hay căn cứ tính thuế:
Bao gồm thu nhập chịu thuế và thuế suất.
2.1 Thu nhập chịu thuế:
2.1.1 Xác định thu nhập chịu thuế:
- Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập. Nó được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi đã trừ một số khoản thu nhập và chi phí để tạo ra thu nhập đó.
- Muốn xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp cần xem xét các vấn đề sau:
+ Nguồn gốc của thu nhập.
+ Địa điểm phát sinh thu nhập và thời hạn cư trú hoặc không cư trú của chủ sở hữu thu nhập.
Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống cơ bản để xác định nghĩa vụ nộp thuế thu nhập của một doanh nghiệp hay cá nhân tại một nước nào đó theo luật pháp của nước đó. Hai hệ thống này là hệ thống xác định nghĩa vụ thuế của một đối tượng dựa trên nơi thường trú và hệ thống dựa trên nguồn gốc thu nhập.
Đánh thuế trên cơ sở thường trú tức là phải xác định rõ thế nào là cơ sở thường trú và thuế thu nhập sẽ được điều chỉnh trên toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau không phân biệt lĩnh vực, thời gian phát sinh. Nói cách khác cơ sở xác định khả năng chịu thuế của một công ty là dựa trên khái niệm một công ty cư trú hay không cư trú ở một nước. Một công ty cư trú ở một nước có nghĩa vụ kê khai toàn bộ thu nhập chịu thuế phát sinh ở trong nước và ngoài nước. Còn công ty không cư trú, nhưng có cơ sở thường trú ở một nước chỉ có nghĩa vụ kê khai thu nhập phát sinh tại nước đó.
Phương pháp đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập (Đánh thuế trên cơ sở xuất xứ) tức là chỉ có những thu nhập phát sinh trong lãnh thổ của cơ sơ sản xuất kinh doanh đó bị đánh thuế.
Như vậy, việc đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập sẽ có cơ sở tính thuế eo hẹp hơn cách đánh thuế dựa trên tiêu chuẩn thường trú khi trên lãnh thổ 1 quốc gia nào đó có nhiều công ty hoạt động kinh doanh của nước ngoài
+ Tính thường xuyên hay không thường xuyên của việc phát sinh thu nhập.
- Khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN cần phải quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau đây:
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập bằng tiền, tức là chỉ những thu nhập được tính ra bằng tiền mới đưa vào thu nhập chịu thuế, theo đó thì những thu nhập dưới dạng hiện vật phải được tính thành tiền và những thu nhập nhận được từ các lợi ích công cộng không được tính vào thu nhập chịu thuế.
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập ròng, tức là thu nhập nhận được sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý và cần thiết để tạo ra thu nhập đó;
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập thực tế. Tức là chỉ những thu nhập mà doanh nghiệp thực sự nhận được trong kỳ tính thuế mới được tính còn những thu nhập đang ở dạng tiềm ẩn thì không được tính vào thu nhập chịu thuế. Ví dụ những khoản trừ chiết khấu giảm giá cho khách hàng, trị giá hàng bị trả lại sẽ được khấu trừ không được tính vào thu nhập chịu thuế, ngược lại những khoản trợ giá, phụ thu mà doanh nghiệp được hưởng lại được tính vào thu nhập chịu thuế.
2.1.2 Xác định thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp:
Xác định đúng đắn thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và thực thi luật thuế vì việc xác định đúng thời gian tính thuế sẽ đảm bảo giá trị đồng tiền nộp thuế trước tình trạng lạm phát, tránh sự lợi dụng chiếm dụng tiền thuế và thực hiện chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước.
2.1.3 Tuỳ theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội dung, phương pháp xác định các khoản chi phí có sự khác nhau. Các khoản chi phí được khấu trừ về nguyên tắc phải có các đặc trưng sau:
+ Chi phí phải liên quan tới doanh nghiệp hay có thể nói rõ hơn đó là các chi phí phải được chi ra cho các mục đích tạo ra thu nhập chịu thuế.
+ Chi phí phải thật được chi ra.
+ Mức trả cho chi phí phải hợp lý.
+ Chi phí phải có tính “thu nhập” hơn là tính vốn. Chi phí mang tính chất vốn là những khoản chi liên quan đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chi phí mang tính chất thu nhập là những khoản chi phí liên quan trực tiếp đến tạo ra thu nhập.
Mặc dù có những nguyên tắc chung để xác định các khoản chi phí được khấu trừ nhưng nhiều khoản chi phí không nằm trong phạm vi các nguyên tắc trên. Các chi phí đó là:
a. Vốn thu hoạch lại: là số tiền thanh lý tài sản, nhượng bán tài sản. Có 3 quan điểm về việc đánh thuế đối với vốn thu hoạch lại:
- Quan điểm 1: Đánh 1 phần vào 1 số loại vốn thu hồi được, chủ yếu đánh vào đất, cổ phần.
- Quan điểm 2: Không đánh thuế thu nhập vì nói không mang tính chất thu nhập mà mang tính chất vốn.
- Quan điểm 3: Đánh thuế thu nhập trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại vì người ta coi đó là khoản thu nhập.
Để đánh thuế chính xác, ở các nước có hệ thống thuế hiện đại, người ta cho laọi trừ các nhân tố ảnh hưởng (ví dụ như lạm phát). Ở các nước hệ thống thuế chưa phát triển, đánh thuế trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại.
b. Lợi tức cổ phần: là một khoản thu nhập của doanh nghiệp do doanh nghiệp đóng góp cổ phần vào công ty khác. Có 2 quan điểm:
- Quan điểm 1: Không nên đánh thuế vì trước khi nhận được lợi tức cỏ phần, khoản này đã bị đánh thuế ở doanh nghiệp mà mình góp cổ phần.
- Quan điểm 2: Nếu coi đây là khoản thu nhập thì vấn đánh thuế.
Người ta đưa ra cách xử lý:
- Khấu trừ tiền thuế đã nộp ở khâu trước khi nhận được thu nhập.
- Đánh vào một phần thu nhập từ lợi tức cổ phần.
c. Lãi tiền gửi: Đây là khoản thu nhập của doanh nghiệp nên nên đánh thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu khuyến khích hoạt động cho vay vốn thì không đánh vào lãi tiền gửi.
d. Thu nhập từ nước ngoài: nếu căn cứ vào tiêu thức thường trú thì nên đánh. Tuy nhiên đây là khoản thu nhập từ nước ngoài đã bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp của nước ngoài nên nếu đánh thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ dẫn đến đánh trùng thuế, hạn chế đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh.
e. Khấu hao tài sản cố định: là một yếu tố của hci phí nhưng được phân bổ như thế nào trong từng năm khi tính thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc, tỷ lệ khấu hao tài sản cố định nhằm mục đích tích luỹ và tính thuế phải tương ứng với vòng đời kinh tế hữu dụng của tài sản, nhưng thực tế ở nhiều quốc gia, khấu hao đưa vào chi phí để tính thuế thường không tương ứng với vòng đời hữu dụng của tài sản.
g. Các khoản thuế được khấu trừ:
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì không được coi là khoản chi phí khấu trừ.
Đối với thuế đánh trên hàng hoá (thuế gián thu) thì được coi là chi phí và được phép khấu trừ vì thực chất đây là một khoản chi phí mà Công ty phải trả khi mua hàng hoá và nó được coi như là một chi phí tạo ra lợi nhuận.
h. Chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị, tiếp tân, tiếp khách…: Việc xác định định mức bao nhiều là hợp lý chỉ mang tính chất ước lệ.
2.2 Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế suất là mức động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối tượng tính thuế. Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết của nhà nước đối với một đối tượng tính thuế; thể hiện quan điểm của Nhà nước về yêu cầu động viên nhằm khuyến khích hay không khuyến khích sự phát triển của một ngành nghề, một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Thuế suất được xác định bằng đại lượng tuyệt đối hay bằng tỷ suất.
Cơ cấu thuế suất thuế thu nhập công ty được thiết kế khác nhau tuỳ thuộc điều kiện và chính sách kinh tế của từng nước. Một chính sách thuế thu nhập thông minh không phải là đặt ra mức động viên thuế cao (thuế suất cao), điều quan trọng là thuế suất cần quy định ở mức vừa phải trên cơ sở xem xét, cân nhắc đến cả lợi ích: Nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời cần phải mở rộng diện thu thuế, đa dạng hoá đối tượng thu và không bỏ sót nguồn thu, gánh nặng thuế được san sẻ cho nhiều người cùng chịu.
3. Ưu đãi miễn, giảm thuế
3.1 Khái niệm:
Ưu đãi về thuế là việc một quốc gia, một tổ chức Quốc tế dành những điều kiện, những quyền lợi đặc biệt về thuế cho một tổ chức quốc tế, một quốc gia, một doanh nghiệp hay một cá nhân nào đó hơn so với những quốc gia khác, tổ chức khác hay đối tượng khác.
Nói cách khác, ưu đãi thuế là hình thức cho người nộp thuế được hưởng những điều kiện thuận lợi khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
3.2 Đặc điểm của các ưu đãi thuế
Ưu đãi thuế là một trong những bộ phận của chính sách ưu đãi nên nó mang đầy đủ đặc điểm của chính sách ưu đãi. Ngoài ra nó còn có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Chỉ có tổ chức quốc tế và các quốc gia mới có quyền đặt ra ưu đãi thuế vì tổ chức quốc tế và quốc gia có quyền quản lý. Ưu đãi chỉ tồn tại khi nó thực hiện được. Muốn vậy, đối tượng ban hành ra nó phải có quyền lực nhất định. Tổ chức quốc tế có quyền lực quản lý trong phạm vi các quốc gia theo các cam kết mà các quốc gia này đã ký kết; Nhà nước có quyền quản lý quốc gia trên mọi phương diện hay nói cách khác có Nhà nước thì mới có thuế, mới có ưu đãi thuế. Vì vậy, chỉ có tổ chức quốc tế và Nhà nước ở các quốc gia có quyền đặt ra ưu đãi thuế.
- Ưu đãi thuế nhằm vào mục đích phát triển. Vì vậy, các tổ chức quốc tế, các khu vực, Nhà nước ở các quốc gia đều đưa ra hệ thống ưu đãi thuế khác nhau tuỳ hoàn cảnh của mỗi nước, tuỳ mục tiêu phát triển nền kinh tế trong từng thời kỳ.
- Giới hạn về chủ thể và thời hạn ưu đãi thuế: Cũng như chính sách ưu đãi, chính sách ưu đãi thuế nhằm mục đích nhất định thì phải có chủ thể nhất định. Thời gian ưu đãi thuế cũng phải được tính đến để cho phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp. Nếu thời gian quá ngắn thì các nhà đầu tư chưa có khả năng khắc phục khó khăn nhưng nếu thời gian quá dài thì có khi không những không có tác dụng lắm đối với kích thích đầu tư mà còn tạo ra nhiều mặt tiêu cực vì chính sách ưu đãi nói chung và chính sách ưu đãi thuế nói riêng bên cạnh những mặt tích cực thì còn có rất nhiều những hạn chế như: tạo ra sự mất công bằng, gây méo mó nền kinh tế...
- Chính sách ưu đãi thuế làm giảm cơ sở thuế bao gồm có thể là giảm thuế suất hoặc giảm số thu.
- Mặc dù việc ban hành các ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư rất phổ biến tại các nước trên thế giới, hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về tác dụng của các biện pháp ưu đãi thuế này đối với việc thu hút đầu tư. Đối với các nhà đầu tư, việc quyết định đầu tư vào một nước thường phụ thuộc vào toàn bộ các yếu tố của nước sở tại, trong đó ưu đãi thuế chỉ là một trong lý do để cân nhắc và không phải là yếu tố quan trọng nhất. Nguồn tài nguyên, sự ổn định về chính trị và kinh tế, minh bạch trong hệ thống pháp luật, việc có đầy đủ các hệ thống hỗ trợ (ví dụ: các hệ thống ngân hàng, vận tải, viễn thông và các tiện ích hạ tầng), khả năng dễ chuyển lợi tức ra nước ngoài và lực lượng lao động chuyên nghiệp và giá rẻ thường là những yếu tố quyết định hơn vấn đề về thuế khi xem xét các vị trí đầu tư thích hợp. Nếu các yếu tố này là thuận lợi và hệ thống thuế quốc gia phù hợp với các chuẩn mực quốc tế thì ưu đãi thuế sẽ không còn vai trò quyết định ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
Một đặc điểm nữa của ưu đãi thuế là rất khó có thể định lượng phần đầu tư tăng lên do áp dụng các ưu đãi thuế so với phần số thu đã mất, do đó các đánh giá về tác dụng của từng loại ưu đãi thường mang tính chất định tính, không mang tính chất định lượng.
3.3 Cơ chế áp dụng ưu đãi
- Cơ chế tự động: cơ chế này cho phép doanh nghiệp/ dự án đầu tư nhận được các ưu đãi một cách tự động ngay khi đáp ứng đủ mục tiêu cụ thể theo tiêu thức như số tiền đầu tư tối thiểu của dự án vào các khu vực nhất định của nền kinh tế. Các tiêu thức này thường được quy định hoặc trong những luật có liên quan hoặc trong các quy định thực hiện luật.
- Cơ chế xét duyệt: cơ chế này gắn liền với việc chấp thuận hay từ chối đơn xin áp dụng ưu đãi trên cơ sở đánh giá mức thực tế đạt được so với các điều kiện ưu đãi đã đưa ra ban đầu.
Đối với cả hai loại cơ chế lập ngưỡng đều có những hạn chế nhất định. Cơ chế lập ngưỡng xét duyệt tốt hơn cơ chế tự động vì cơ chế xét duyệt có thể tạo cho cơ quan cấp ưu đãi nhiều linh hoạt trong việc xác định ưu điểm của từng đơn xin hưởng ưu đãi. Tuy nhiên, trên thực tế việc xét duyệt có thể thiếu minh bạch và tạo điều kiện cho nạn tham nhũng.
3.4 Phạm vi ưu đãi:
Ưu đãi thuế có thể chia thành 2 cấp độ:
+ Ưu đãi trên phạm vi Quốc tế: Là việc một tổ chức Quốc tế, một quốc gia nào đó dành những điều kiện, những quyền lợi đặc biệt hơn về thuế cho một hay một số quốc gia khác trong phạm vi một công ước Quốc tế, một hiệp định song phương, đa phương… so với các quốc gia khác khi tham gia vào thương mại Quốc tế.
+ Ưu đãi trên phạm vi quốc gia: Là việc một quốc gia dành những điều kiện, những quyền lợi đặc biệt hơn về thuế cho một tổ chức, một doanh nghiệp… nhằm khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của một lĩnh vực, một ngành nghề hay một mặt hàng nào đó… theo mục tiêu hoặc đường lối mà Chính phủ đă đặt ra. Việc ưu đãi trên phạm vi quốc gia được Chính phủ các nước sử dụng dưới hình thức luật, các văn bản dưới luật hay đơn giản chỉ là quy định của một địa phương nào đó. Tuy nhiên, các quyết định mà Chính phủ các nước đưa ra phải phù hợp với các nguyên tắc, các cam kết của các tổ chức Quốc tế mà Chính phủ đã ký kết trong tiến trình tham gia vào thương mại Quốc tế.
3.5 Hình thức ưu đãi chủ yếu
Các nước c