Tại sao nhà Nguyễn mất nước?

Đại Nam cuối thế kỉ XIX phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược bởi chủ nghĩa đế quốc. Triều đình nhà Nguyễn, với tư cách là đại biểu giai cấp phong kiến bấy giờ, lãnh trách nhiệm lịch sử, lèo lái con thuyền dân tộc. Mỗi quyết định và sự ứng xử của nó quyết định vận mệnh của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam. Thực tế, cuối thế kỉ XIX, Đại Nam trở thành thuộc địa của Pháp, bắt buộc phải chấp nhận làm thân phận nô lệ cho ngoại bang. Điều ấy chỉ cho phép ta hiểu: nhà Nguyễn đã không làm tròn được trọng trách mà lịch sử trao cho nó. Đó là kết quả của quá trình từng bước lún sâu vào khủng hoảng nhưng lại bế tắc, không thể tháo gỡ của Đại Nam. Những mâu thuẫn, bất đồng ứ đọng trong xã hội cứ thế tích tụ dần và ngày càng đẩy đất nước đến chỗ rối loạn, suy yếu. Việt Nam, vì thế, trước nguy cơ bị xâm lăng chẳng khác nào một cơ thể ốm yếu đầy bệnh tật, run rẩy trước bệnh dịch nhưng khăng khăng không chịu (hay không thể) uống thuốc. Bằng bất cứ cách lí giải nào, chúng ta phải thừa nhận rằng sở dĩ Nhà Nguyễn lún sâu vào trong mâu thuẫn chính là vì từ trong nó (từ trong bản chất của nó) nó có lí do (có khả năng) để hành động như vậy. Rõ ràng, khi theo sát qýúa trình lịch sử trong thế kỉ XIX, hoàn toàn có thể nhìn thấy một chuỗi sự kiện logic,liên tục, mà, chính từ đó, triều đình Huế mâu thuẫn với quần chúng nhân dân, rồi tự mâu thuẫn với chính mình. Những phân tích về nguyên nhân mất nước của nhà Nguyễn chủ yếu tập trung vào hai luận đề: “không tin dân” và “không làm cải cách”. Nói cách khác,lẽ ra triều đình Huế đã phải làm được ít nhất một trong hai việc đó, nhưng nó đã không làm được gì, bối rối trước mọi tình hình, dần đánh mất vai trò của mình. Liệu nhà Nguyễn có cơ hội thay đổi kết quả mất nước năm 1883 không? Câu hỏi đó chắc sẽ còn vương lại trong đầu của mọi nhà nghiên cứu sử học.

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 8332 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tại sao nhà Nguyễn mất nước?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dẫn luận Đại Nam cuối thế kỉ XIX phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược bởi chủ nghĩa đế quốc. Triều đình nhà Nguyễn, với tư cách là đại biểu giai cấp phong kiến bấy giờ, lãnh trách nhiệm lịch sử, lèo lái con thuyền dân tộc. Mỗi quyết định và sự ứng xử của nó quyết định vận mệnh của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam. Thực tế, cuối thế kỉ XIX, Đại Nam trở thành thuộc địa của Pháp, bắt buộc phải chấp nhận làm thân phận nô lệ cho ngoại bang. Điều ấy chỉ cho phép ta hiểu: nhà Nguyễn đã không làm tròn được trọng trách mà lịch sử trao cho nó. Đó là kết quả của quá trình từng bước lún sâu vào khủng hoảng nhưng lại bế tắc, không thể tháo gỡ của Đại Nam. Những mâu thuẫn, bất đồng ứ đọng trong xã hội cứ thế tích tụ dần và ngày càng đẩy đất nước đến chỗ rối loạn, suy yếu. Việt Nam, vì thế, trước nguy cơ bị xâm lăng chẳng khác nào một cơ thể ốm yếu đầy bệnh tật, run rẩy trước bệnh dịch nhưng khăng khăng không chịu (hay không thể) uống thuốc. Bằng bất cứ cách lí giải nào, chúng ta phải thừa nhận rằng sở dĩ Nhà Nguyễn lún sâu vào trong mâu thuẫn chính là vì từ trong nó (từ trong bản chất của nó) nó có lí do (có khả năng) để hành động như vậy. Rõ ràng, khi theo sát qýúa trình lịch sử trong thế kỉ XIX, hoàn toàn có thể nhìn thấy một chuỗi sự kiện logic,liên tục, mà, chính từ đó, triều đình Huế mâu thuẫn với quần chúng nhân dân, rồi tự mâu thuẫn với chính mình. Những phân tích về nguyên nhân mất nước của nhà Nguyễn chủ yếu tập trung vào hai luận đề: “không tin dân” và “không làm cải cách”. Nói cách khác,lẽ ra triều đình Huế đã phải làm được ít nhất một trong hai việc đó, nhưng nó đã không làm được gì, bối rối trước mọi tình hình, dần đánh mất vai trò của mình. Liệu nhà Nguyễn có cơ hội thay đổi kết quả mất nước năm 1883 không? Câu hỏi đó chắc sẽ còn vương lại trong đầu của mọi nhà nghiên cứu sử học. B. Triều đại không có lòng dân 1. Lỗi lầm của cầu viện Chẳng ai có cơ hội thay đổi quá khứ của mình, chí ít là thay đổi những điều sai trái đã gây ra, Nguyễn Ánh cũng vậy. Cầu viện quân Xiêm rồi kí hiệp ước với Pháp có lẽ đều không phải là những việc làm có ích. Trái lại, nó hằn vào nhà Nguyễn như vết thương không mất đi bao giờ trên khuôn mặt. Hậu quả những hành động của “ông Hoàng mất nước” tai hại đến nỗi âm hưởng từ nó gây ra tình trạng mâu thuẫn nghiêm trọng giữa triều đình và nhân dân. Sở dĩ sai lầm đó nghiêm trọng chính vì với người dân Việt Nam, đó là một cấm kị. Người Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn cùng tính cộng đồng cao hình thành sau suốt chặng đường kháng chiến và chống lụt hàng nghìn năm. y thức về cái chung,về tổ quốc được củng cố làm mờ y thức về cái tôi. Quốc gia, vì lẽ đó được đặt lên trên cao hơn hết : đạo đức lớn nhất là làm lợi cho đất nước, người Việt không bao giờ lấy dòng họ đặt tên cho đất nước. Hơn nữa, dẫu cầu viện ngoại bang không phải là hiện tượng hiếm trong lịch sử, nhưng, tranh chấp nội bộ dân tộc, dẫn ngoại tộc vào, đối với người Việt khác nào bán mình cho giặc. Nguyễn Ánh – một người Việt quả cảm, thông minh, tài trí – nhưng khi để nỗi hận thù che mờ mắt, nôn nóng phục hưng dòng tộc, đã đặt đạo đức dòng tộc cao hơn đạo đức quốc gia. Lập tức, trong con mắt của sĩ phu, nhà Nguyễn trở lại với vết hoen ố không thể tẩy rửa. Mặt khác, đối với nhân dân, lỗi lầm của ánh là đáng giận, đáng căm ghét. Bởi vậy, chẳng có gì khó hiểu khi người Việt Nam, vốn hiền lành, quen an phận thủ thường, nhưng hễ bất bình với triều đình Nguyễn lại nổi dậy. Từ Gia Long đến Tự Đức, vốn không phải những ông vua bất tài (lại càng không phải hôn quân) nhưng có đến gần 400 cuộc khởi nghĩa, (riêng thời Gia Long có đến 90 cuộc khởi nghĩa). Nếu như nhà Lý, Trần, Lê có được vị trí vững chắc trong lòng dân nhờ công dẹp ngoại xâm, thì trái lại, nhà Nguyên để mất cơ sở niềm tin bởi đã “trót” dẫn quân Xiêm về làm “khách” của Đại Nam. Lỗi lầm ấy của Gia Long đã hại nhà Nguyễn đến chỗ phản ứng tiêu cực một cách mù quáng trước nhân dân. Lùi về Huế, buông bỏ Bắc Hà, không quản lí nổi Nam Kì, triều đình Huế tự cô lập mình với dân tộc. Mầm mống cho sự yếu kém của đất nước bắt đầu từ đây. 2. Sự đáp trả của triều đình Có lẽ nhận thức được thái độ của nhân dân, Nguyễn Ánh cũng như những vị vua kế tiếp ông thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Tiếc rằng triều đình chỉ có thể khôn khéo lợi dụng sự phân tán của các phong trào nhỏ lẻ mang tính địa phương ấy, song chẳng có cách nào tìm được vị trí thực sự trong dân. Thuế tăng cao, bóc lột người dân đến từng xu để đàn áp những đồng bào không cam chịu khổ nhục của họ. Đáng thương cho trều Nguyễn, càng đàn áp nhằm tìm cách khẳng định vị trí của mình (biện pháp của kẻ mạnh, cái lí của kẻ mạnh), thì nỗi căm oán của nhân dân càng lên cao, mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân và triều đình phong kiến càng sâu sắc, trầm trọng. Vấn đề đằng sau đó của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này chính xuất phát từ đây: cùng với đàn áp một cách mù quáng, bất lực trước lòng dân, triều đình Huế đồng thời nảy sinh tâm lí nghi ngờ nhân dân, không tin và gần như sợ dân. Cũng như người hay ốm thường sợ bệnh hay thời tiết thay đổi, nhà Nguyễn lo ngại mối lo nội quốc hơn bất kì mối lo nào khác: nếu phải chọn giải quyết giữa xâm lăng và khởi nghĩa, nhất quyết phải đàn áp các cuộc khởi nghĩa trước. Mối tác động qua lại khởi điểm từ sự chán ghét của nhân dân, sau đó là sự trả thù của giai cấp phong kiến ngày càng tồi tệ hơn. Nhưng không chỉ dừng lại ở sự tồi tệ trên mối quan hệ đó, mâu thuẫn tăng cấp từ sự tương tác này thực sự đẩy nhà Nguyễn đến chỗ tiêu cực trong mọi chính sách, để rồi đưa đất nước vào tình trạng không lối thoát. Đặc biệt, sau khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833) ở Nam Kì, trước sự chống trả quyết liệt của nghĩa quân ( Minh Mạng bất ngờ : “Chỉ đáng lạ cho dân Nam Kì… trước đây cái thói trung hậu là thế, vậy mà một chốc đã có cái cực kì ngu dốt như kia”), triều đình không còn tin ở nhân dân nữa (Nam kì là cái gốc phục quốc của Gia Long). Nét gạch đen vào bức tranh thẳm tối bào hiệu trước những nỗi đau sắp tới của Đại Việt. 3. Những quyết đinh sai lầm 1858 là cái mốc đầu tiên người Pháp thực sự bắt đầu công cuộc xâm chiếm bằng bạo lực. Triều đình Huế đứng trước hai lựa chọn: chủ chiến hoặc chủ hoà. Đó là câu chuyện bất đồng của các vị đại thần núp sau bóng thành Huế, còn danh tướng Nguyễn Tri Phương mới thực là người trực tiếp chỉ huy trên chiến trường. ông có hai lựa chọn chiến thuật: hoặc tìm cách đánh tiêu diệt trực tiếp, hoặc hoặc tìm cách giam chân giặc khiến chúng yếu sức. ông hiểu hơn ai hết rằng: một mặt, quân đội mà ông có trong tay không hề thiện chiến; mặt khác, quân đội Pháp vượt trội về sức mạnh với vũ trang đầy đủ. Vị tướng hàng đầu này lập tức đưa ra giải pháp: vừa cố thủ, vừa thanh dã. Biện pháp này thực sự có hiệu quả: quân Pháp không phát huy được sức chiến đấu, ngày càng rệu rã và mệt mỏi. Tình hình tương quan ta và địch có lẽ phần nào được Trần Trọng Kim nói rất đúng trong cuốn Việt Nam sử lược: “Quân Pháp và quân I-pha-nho ở Sài Gòn bấy giờ chỉ có độ 1000 người mà quân Việt Nam ta thì có đến một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Mình chỉ có mầy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay 300 thước Tây là cùng; còn súng đại bác toàn là súng nạp tiền mà bắn 10 phát không đậu 1. Lấy những quân lính, khí giới ấy mà đối địch với quân đã theo đường lối mới, bắn bằng súng nạp hậu và bằng đạn trái phá, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ Việt Nam ta từ đầu đến cuối chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ có thế công …” Một cách khách quan, trước hiệp ước Nhâm Tuất, dẫu Pháp đang chiếm ưu thế ở Nam Kì nhưng chúng không có khả năng giữ. Chính Giơnuiy thừa nhận: “nếu họ đánh mạnh thì họ đã đánh bại chúng ta lâu rồi”. Chắc chắn triều đình Huế phải nắm được phần nào thực tế ấy (khi Pháp chủ động đưa những hoà ước ra với điều kiện dễ chịu, triều đình khăng khăng khước từ : đây không phải là cách cư xử của một triều đình hèn nhát, bạc nhược, không biết gì về tình hình quân sự.) – một triều đình không hiểu gì về tình hình quân sự như thế chỉ có ở trong những vở kịch lịch sử ! Khi những biện pháp quân sự không có hiệu quả, biện pháp chính trị được sử dụng. Các giáo sĩ xúi dục Tạ Văn Phụng nổi loạn ở Bắc Kì. Triều đình Huế vội vang kí hiệp ước Nhâm Tuất, chấp nhận những điều kiện ngu xuẩn nhất nhằm rảnh tay đàn áp phong trào nông dân. Vết nứt mà từ đó toàn bộ hình tượng, vai trò của triều đình trước nhân dân bị đổ vỡ. Nhà Nguyễn, đến đây, thực sự mất dân. Hai hòa ước kí năm 1883,1884 gần như chịu chung một loại nguyên nhân đó. Triều đình không tin dân nhưng đánh giặc lại không thể tự mình đánh. Chính vì thế, vua Tự Đức rốt cuộc lại cầu viện đến quân Thanh và Pháp để dẹp yêu giặc dã trong nước, nhưng lại cố gắng xoa dịu các tầng lớp nhân dân. Triều đình, như vậy, đã không thể có một lực lượng thật sự để dựa vào đó, bản thân Tự Đức cũng bối rối và không thể tìm ra giải pháp đúng đắn. Nỗi sợ dân ám ảnh triều Nguyễn dai dẳng- không vượt được lên trên nỗi sợ của chính mình, nhà Nguyễn tự kí bản án nghiệt ngã cho chính nó. Kết quả mất nước hoàn toàn( hiệp ước Pa-tơ-nôt) chỉ là khẳng định cao nhất cho sự thiếu niềm tin và sự sứt mẻ nghiêm trọng lòng đoàn kết, tính thống nhất của Nhà nước với nhân dân trong những thời điểm quan trọng quyết định vận mệnh dân tộc. 4. Lời biện hộ cho cái “không thể khác” Mọi quyết định, hành của nhà Nguyễn không phải là cơn trái tính bất thường- sự lặp lại cùng một hành động trong những thời điểm khác nhau bắt ta phải nhìn nhận rằng hiện tượng này chẳng qua là minh họa rõ nét cho bản chất của nó. Nhà Nguyễn khởi dựng lại cơ đồ bằng mọi thủ đoạn nhằm mục đích duy nhất là khôi phục quyền lợi ích kỉ của dòng tộc, bất chấp đạo đức quốc gia. Ngay từ đầu, Gia Long đã không tiếc công gọi quân Xiêm và cầu viện Pháp; cho đến ngày Tự Đức thà giết đồng bào chứ không đánh ngoại bang. Mọi hoạt động của giai cấp phong kiến trong giai đoạn lịch sử đau thương này bị quy định hoàn toàn bởi bản chất ích kỉ đó của triều Nguyễn. Từ cơ sở đó, toàn bộ những chính sách phản động ra đời, đối lập với nhân dân và sự đối lập này sâu sắc đến độ đủ quẫn trí để quên đi đất nước. Bản chất thứ hai của nhà Nguyễn, xuất phát từ bản chất thứ nhất, là một triều đình sợ dân( hơn sợ giặc). Hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân kết hợp với tính ích kỉ khiến triều đình Huế trở nên nhạy cảm đặc biệt với sự nổi dậy của nông dân. Kết quả của nỗi sợ ấy hoàn toàn có thể khẳng định từ đầu: chẳng có kết quả nào khác cho một dân tộc vốn chiến thắng những kẻ thù hùng mạnh chỉ bởi đã đoàn kết nhưng nay lại chia rẽ, mát đoàn kết. Nếu như người ta vẫn nói “lịch sử-cái gì cần sẽ có”, thì đây :người Pháp đã đến dày xéo mảnh đất Đại Nam đủ để triều đình nhà Nguyễn bộc lộ đầy đủ bản chất của nó. Cuối cùng, chúng ta không thể trách được những gì “vốn nó thế”. Triều đình Huế đã làm những gì mà chính nó là như vậy đấy. Hay, chúng ta trông chờ một phép lạ nào đó khiến nhà Nguyễn thay đổi toàn bộ bản chất của nó? Nếu như có một phép lạ như vậy, thì chúng ta chỉ có thể ước rằng Quang Trung đã không ra đi sớm, để đến nỗi lịch sử bối rối trao dân tộc cho Nguyễn Ánh, mở màn cho tấn bi kịch dằng dặc của Việt Nam. C. Đất nước “không thể cải cách” Một triều đình không tin dân vẫn có thể làm cải cách. Nhưng cải cách không đơn giản là món đồ trang sức có thể mua nó bằng tiền- sự duy tân thành công mang lại sức mạnh cho quốc gia nhưng nó đòi hỏi nhiều yếu tố. Cải cách càng không phải là trò chơi hay tấn kịch mà người ta có thể dàn dựng được. Nửa cuối thế kỉ XIX, một số trí thức Việt Nam tìm cách vận động triều đình thực hiện duy tân. Người ta vẫn kể lại câu chuyện này và thở dài nuối tiếc rằng nhà vua đã quá ngu tối và bảo thủ không làm cải cách. Lịch sử, nhờ thế, dường như bị quyết định bởi nụ cười nhạt của Tự Đức? 1. Nông nghiệp- nỗi băn khoăn của Đại Nam Nam Kì cho đến thế kỉ XIX thực sự là vựa lúa của Việt Nam: người nông dân “làm chơi” nhưng “ăn thật”- vùng đồng bằng Nam bộ quả thức là món quà thiên nhiên ban tặng cho một xứ sở nông nghiệp. Tiếc rằng điều đó không có nghĩa rằng vấn đề lương thực được giải quyết. Nếu trong giai đoạn đó, có vùng nào không bị thiếu đói hay xiêu tán, có lẽ vùng đó không ở Bắc hà lẫn miền Trung. Lương thực thiếu trở thành yếu tố kích thích xã hội rối loạn: nông dân đói bỏ, đi xiêu tán, một bộ phận trở thành giặc cướp. Giặc cướp và khởi nghĩa không chỉ “giúp” triều đình và nhân dân tăng cường đối đầu, mà còn khiến nông dân không thể yên ổn làm ăn. Hậu quả rõ nhất là một chuỗi luẩn quẩn: nông nghiệp sút kém, dẫn đến nổi loạn, nổi loạn bắt triêu đình đàn áp, chi phí cho quân sự vì thế đè nặng lên chính lưng người nông dân và thuế mà họ phải đóng- thuế cao sẽ lại quay trở lại làm tổn thương nền nông nghiệp. Đối với đất nước lấy gạo làm nền sống như Việt Nam, sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng đồng nghĩa với mâu thuẫn xã hội lên cao, xã hội bất ổn : điềm báo của chiến tranh và đổ vỡ. Trên cương vị những người cai quản quốc gia, chắc chắn triều đình nhà Nguyễn cũng thấu hiểu điều này. Có lẽ chính sự thấu hiểu này đã thôi thúc các vua Nguyễn tìm cách phát triển nông nghiệp, không chỉ nhằm giải quyết lương thực, mà cao hơn thế, giải quyết bất ổn xã hội. Từ việc lập sổ địa bạ đến những chính sách khai hoang, doanh điền, quân điền…, kì vọng của thượng tầng xã hội được đáp trả lịch thiệp bằng những nạn đói kế tiếp nhau, đi kèm với khởi nghĩa và nổi loạn. Tự Đức nhận thức được món quà nặng nề ấy, nhưng ngài cũng bất lực, vận mệnh dân tộc thì phó mặc cho ngài. Nông nghiệp sa sút không cho phép tiểu thủ công nghiệp phát triển. Nền sản xuất bất an thì thương nghiệp càng tồi tệ hơn. Tài chính đổ cho những chính sách khai hoang và lập điền tuy có đạt được những thành tựu nhất định nhưng vẫn chẳng thấm vào đâu. Vậy là nông nghiệp Việt Nam thế kỉ XIX trở thành nỗi băn khoăn của toàn thể nền kinh tế, cúng là nguyên nhân của nhiều bất ổn xã hội: triều đình loay hoay đàn áp khởi nghĩa và phát triển nông nghiệp, còn nông dân thì tiếp tục quẫn chí xiêu tán, bỏ ruộng, nổi dậy. Tất cả cho phép ta nhận định rằng: nông nghiệp trở thành sợi dây trói chặt toàn bộ nền kinh tế, không cho và kĩm hãm sự phát triển của nền kinh tế , đồng thời hạn chế khả năng cải cách . Dĩ nhiên nông nghiệp phát triển đâu phải là tiền đề duy nhất cho cải cách! Nhưng sự yếu kém của nó trong một nước dùng nó để tồn tại hơn nghìn năm nay, lại không tạo điều kiện để cải cách có thể tiến hành: không có tài chính, không có lương thực ( mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ 17, 18 cũng xuất phát từ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi nhu cầu hàng hóa ngoài nông nghiệp được đưa vào thị trường). Vấn đề nông nghiệp nhức nhối, bằng cách đó nó làm lu mờ những giải pháp khắc phục nằm ngoài nông nghiệp. Thương nghiệp nằm trong tay người Hoa, thuốc phiện được đưa vào ào ạt và gạo bị đưa đi góp phần đẩy nông nghiệp vào đường hẻm. 2. Thương nghiệp-nỗi vô vọng của nền kinh tế 2.1. Tiểu thủ công nghiệp hạn chế-Thương nghiệp kém phát triển Gia Long phục quốc nhờ sự giúp đỡ về kinh tế của Hoa thương, bởi vậy, để đền ơn, ngài đành cắn răng cho họ tự do đi lại buôn bán trên đất Việt. Hoa Kiều chiếm ưu thế ở nước ngoài là hiện tượng phổ biến không chi trên khu vực Đông Nam á. Trong khi đa phần các thương nhân người Việt đều an tâm ngồi ở chợ thì Hoa thương không chỉ hoạt động mạnh ở Nam Kì, họ còn xuôi theo sông Hồng, đi từ Vân Nam xuyên xuống Bắc Hà buôn bán. Nền thương nghiệp bị thương nhân người Hoa thống trị cho đến hết thế kỉ XIX, sang thế kỉ XX vẫn còn âm hưởng. Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp khiến ta phải suy ngẫm. Sách “Lịch sử Việt Nam đại cương” cuốn I nhận định: Mặc dù thủ công nghiệp nói chung phát triển nhưng phương thức sản xuất hầu như không phát triển…”. Trong khi vào thế kỉ XVIII, thủ công nghiệp phát triển bởi nông nghiệp đảm bảo nhu cầu các mặt hàng tăng lên, thì hiện tượng nông nghiệp đi xuống kèm theo sự phát triển tiểu thủ công nghiệp thật đáng ngờ. Theo chúng tôi, nỗ lực tìm giải pháp ngoài nông nghiệp tuy có thể đã xuất hiện trong nhân dân nhưng nó không được tạo cơ hội phát huy. Thực tế đơn giản rằng: nhà nước chắc chắn không để tình trạng nông nghiệp sa sút còn những ngành kinh tế khác phát triển- quyết định như thế liều lĩnh và đầy nguy cơ. Nhà nước đã nắm ngoại thương, còn trong nước không có nhu cầu, tiểu thủ công nghiệp tuy đã nhích lên trong giai đoạn nào đó hẳn tiếp tục yếu kém lập tức sau đó: sự tồn tại đảm bảo tính lâu bền khi và chỉ khi cơ sở của nó vững chắc- cơ sở thị trường không yêu cầu chắc chắn không có lí do thúc đây tiểu thủ công nghiệp. Ngành khai thác mỏ độc quyền bởi nhà nước để đảm bảo sự quản lí chặt chẽ của triều đình đối với những ngành chiến lược càng không thể được tự do phát triển. Bởi vậy, dẫu không thể phủ nhận qua những tài liệu lịch sử rằng ngành khai mỏ đã phát triển ở Đại Nam dưới thời Nguyễn, các nhà nghiên cứu lịch sử bắt buộc phải thừa nhận rằng nó chẳng giúp gì thêm cho nền kinh tế nhiều- nó hoàn toàn không có khả năng khắc phục những khó khăn mà nông nghiệp lưu lại. Tóm lại với cơ sở hàng hóa nghèo nàn, không thể trông chờ ở thương nghiệp bất kì một lối thoát nào cho nền kinh tế. Bằng một nỗ lực gượng gạo, nhà Nguyễn tìm cách kiểm soát phần nào thương nghiệp, nhưng chỉ còn có thể làm chủ sự buôn bán riêng những ngành sản xuất mà nóđộc quyền hay chủ động khống chế. Trót để người Hoa thao túng buôn bán, triều đình đành gỡ gạc bằng cách đóng cửa không cho thương nhân ngoại quốc vào buôn bán (ngoại trừ người Hoa- triều đình nhà Nguyễn dẫu sao cũng tôn sùng nhà Thanh!). Một phần lí do chính vì muốn làm chủ và khẳng định vị thế của mình trong kinh tế, mặt khác e ngại kịch bản tái diễn như với người Hoa (khi người ta yếu, người ta không chỉ ích kỉ mà còn hay sợ sệt). Thương nghiệp, như vậy, từ chỗ kém phát triển đến chỗ bị kiềm chế, dẫn đến ảnh hưởng không tốt lành không chỉ đối với nền kinh tế Đại Việt, mà còn cho tương lai của dân tộc. Chính sách cho thương nghiệp được triều đình Nguyễn đưa ra rõ ràng do tình hình kinh tế bắt buộc (những giải pháp khác chắc chắn phải do một Nhà nước khác đưa ra!). 2.2. Thực sự không thể trông chờ vào thương nghiệp Quan hệ thương nghiệp ở Việt Nam trong thế kỉ XIX chủ yếu là quan hệ giữa Trung Hoa và Đại Việt. Đây không đơn giản là kết quả do chính sách của nhà Nguyễn. Tình hình này thực ra bị chi phối bởi cơ sở lịch sử trước đó- người Hoa có vị trí đặc biệt đối với người Việt : họ không khác gì người Việt về bề ngoài lắm (đặc biệt người Hoa ở vùng Lưỡng Quảng hoặc đã sinh sống ở Việt Nam lâu đời), lại có kinh nghiệm buôn bán trong cộng đồng người Việt. Nhận xét cay đắng của Rheinart(khi các cửa cảng đã được mở để người Pháp vào,1881) rất đúng với tình hình lúc ấy : “Người Hoa có vị trí đặc biệt: trong nước họ được coi như người An Nam…”. Triều đình Huế cấm xuất khẩu gạo, vàng bạc, tơ lụa..., còn triều đình Mãn Thanh cấm xuất khẩu sắt, thép, chì lưu huỳnh... Nhưng Trung Quốc cần gạo còn Việt Nam cần sắt, than, chì... Từ nhu cầu đó, triều đình Huế cho phép một cách dè dặt những tàu buôn Trung Hoa mang hàng đếnvà mua hàng. Song, thực tế, sự cho phép một cách hạn hẹp như thế không đáp ứng được đòi hỏi lớn: tiền đề này mở đường cho nạn buôn lậu- gần như chính quyển thúc thủ bó tay trước việc thanh toán nạn buôn lậu. Thuyền buôn Trung Hoa cứ thế đến mua gạo, đưa gạo ra khỏi xứ sở đang sắp chết đói. Nạn buôn lậu gạo dẫn đến thiếu hụt gạo cần thiết để lưu thông trong thị trường, làm giá gạo tăng, góp phần tạo nên bất ổn xã hội.Hậu quả khác của buôn lậu cũng nguy hại không kém : nha phiến từ Hoa Kiều lan ra xã hội. Những lện cấm nha phiến suốt những năm 1817.1820,1824,1832,1840,1852, 1853,1856 cho thấy sự bất lực của chính quyền, đồng thời là minh hoạ rõ nét cho hiện trạng xã hội-tệ nạn nha phiến không ngừng lan tràn. Thương nghiệp tự nó đã kém phát triển, sau khi bị kiềm chế, lại càng hợp sức với nông nghiệp kéo lùi xã hội Việt Nam. Các nhà sử học và giới nghiên cứu cho rằng nếu nhà Nguyễn chịu mở cửa cho phương Tây vào buôn bán, thì những mầm mống tư bản đ