Tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn? Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn

Trong bài tiểu luận này, tôi đi giải quyết những yêu cầu mà đề tài đã đặt ra: “Tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn? Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn”. Nội dung bài tiểu luận được thể hiện theo trình tự sau: 1.Tìm lời đáp cho câu hỏi tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn. 2. Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn. (i) Pháp luật hợp đồng Việt Nam chưa thống nhất (ii) Hợp đồng tặng cho còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn (iii) Nguyên tắc thiện chí, trung thực chưa được bảo đảm (iv) Hợp đồng mua bán hàng hóa có điểm không phù hợp (v) Lời kết 3. Nguồn tài liệu tham khảo

doc12 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn? Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu: Trong bài tiểu luận này, tôi đi giải quyết những yêu cầu mà đề tài đã đặt ra: “Tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn? Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn”. Nội dung bài tiểu luận được thể hiện theo trình tự sau: 1.Tìm lời đáp cho câu hỏi tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn. 2. Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn. (i) Pháp luật hợp đồng Việt Nam chưa thống nhất (ii) Hợp đồng tặng cho còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn (iii) Nguyên tắc thiện chí, trung thực chưa được bảo đảm (iv) Hợp đồng mua bán hàng hóa có điểm không phù hợp (v) Lời kết 3. Nguồn tài liệu tham khảo. 1.Tìm lời đáp cho câu hỏi tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn. Dẫn nhập: Hàng ngày chúng ta thực hiện rất nhiều loại hợp đồng như mua tô phở ăn sáng, đổ xăng, gửi xe, ký hợp đồng mua bán với đối tác, thuê nhà v.v. Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (điều 388 Bộ luật dân sự 2005). Hợp đồng là một trong những hành vi thường xuyên gặp nhất trong việc phát sinh những quan hệ nghĩa vụ. Nó đơn giản đến nỗi một bà nội trợ đi mua rau cũng không cần học về luật hợp đồng mới thực hiện giao dịch được. Nhưng nó cũng phức tạp đến nỗi những hãng luật nỗi tiếng cũng không soạn thảo một hợp đồng hoàn chỉnh hay giải quyết tranh chấp xảy ra giữa các đối tác. Vậy pháp luật hợp đồng có cần phải phù hợp với thực tiễn hay không? Như chúng ta đã biết một trong những chức năng của pháp luật hợp đồng giúp cho các quan hệ trong xã hội được hài hòa, bảo đảm quyền lợi của mỗi người, giúp công bằng xã hội. Và nó đã được ghi nhận trong pháp luật của các nước cũng như pháp luật hợp đồng Việt Nam: vai trò của pháp luật hợp đồng là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân (điều 1 Bộ luật dân sự 2005). Pháp luật hợp đồng cần phải phản ánh đúng đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ( vì pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội). Nếu pháp luật không phù hợp với thực tiễn thì không những nó “bị chết” trong đời sống thực tế mà nó còn gây ra những hệ lụy cho xã hội như: người dân không đồng ý thực hiện, giúp cho những “kẻ kém phần tử tế” lợi dụng những khe hở của pháp luật mà làm lợi bất chính từ người khác v.v. Từ đó tạo nên sự bất công bằng trong xã hội, và hậu quả cuối cùng là gây ra sự bất ổn về mọi mặt (kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội). Ngược lại, nếu nó phù hợp với thực tiễn thì pháp luật là “tâm gương soi sáng cho thực tiễn”, sẽ được mọi người tự nguyện tôn trọng và thực hiện, tạo ra những mối quan hệ mới, đảm bảo công bằng xã hội, đời sống được ổn định, và là tiền đề của sự phát triển. Đó cũng chính là lời đáp cho câu hỏi: tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn?  2. Đánh giá pháp luật hợp đồng Việt Nam với thực tiễn. Theo ý kiến chủ quan của tôi thì pháp luật nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng của các hệ thống pháp luật trên thế giới dù được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao đi chăng nữa đều có điểm không phù hợp với thực tiễn (có thể bởi lí do khách quan hoặc lí do chủ quan) nhưng cốt yếu là độ chênh của pháp luật với thực tiễn đời sống ở mức độ bao nhiêu.Và pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đấy. Nghĩa là, nó vẫn tồn tại những điểm không phù hợp với thực tiễn. Sau đây là sự trình bày cụ thể những điểm không phù hợp đó:  (i) Pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân Sự năm 2005, Luật Thương Mại năm 2005…chưa thống nhất với nhau. Như chúng ta đã biết một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật là tính thống nhất. Nhưng việc các văn bản pháp luật khác nhau lại có những quy định không giống nhau về những điểm không khác trong pháp luật hợp đồng là điều mà chúng ta đáng lo ngại và nghi ngờ về tính hiệu quả của pháp luật hợp đồng trong thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. Sau đây là những phân tích để làm sáng tỏ nhận định trên. Trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định quyền hoản (điều 415), đơn phương chấm dứt (điều 426) hợp đồng dân sự còn trong Luật Thương mại 2005 thì lại quy định tạm ngừng (điều 308), đình chỉ (điều 310) hợp đồng. Việc sử dụng từ ngữ khác nhau để quy định cho những vấn đề không khác như thế dễ dẫn đến sự nhằm tưởng giữa các vấn đề đó có sự khác nhau. Và có thể dẫn đến “những phân biệt không nên phân biệt”. Làm cho người áp dụng và sử dụng luật sẽ lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Điều vừa đề cập ở trên chỉ là một ví dụ điển hình trong nhiều trường hợp sử dụng từ ngữ (mặt hình thức) không thống nhất trong pháp luật hợp đồng hiện nay còn về mặt nội dung thì “rối rắm” hơn rất nhiều. Cụ thể như sau: trong Bộ Luật dân sự 2005 quy định mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận (điều 422). Điều này có thể hiểu, mức phạt vi phạm hợp đồng do các bên căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của hợp đồng mà quy định mức phạt hợp đồng cho phù hợp với điều kiện thực tế đấy và không bị ràng buộc bởi một giới hạn nào của mức phạt hợp đồng. Còn Luật Thương mại lại quy định mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá tám phần trăm giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (điều 301). Với quy định này thì quyền lựa chọn mức phạt hợp đồng do các bên thỏa thuận đã bị giới hạn trong khuôn khổ tám phần trăm, cho dù là các hợp đồng có tính chất khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì mức phạt cũng chỉ nằm trong khuôn khổ đó. Việc Luật Thương mại quy định giới hạn tối đa mức phạt hợp đồng như vậy không chỉ mâu thuẩn với quy định tại Bộ luật Dân sự hiện hành mà còn là một quy định trái với thực tiễn (có lẽ duy nhất Luật Thương mại Việt Nam mới quy định giới hạn tối đa này). Mặt khác, nếu Bộ luật dân sự chỉ dừng lại ở việc không giới hạn mức tối đa của phạt vi phạm mà không có một số quy định ràng buộc thì chưa đủ. Ví dụ, sẽ có lúc phạt vi phạm do các bên thỏa thuận lớn hơn hay ít hơn rất nhiều so với thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Với sự không thống nhất này chắn chắn sẽ gây ra nhiều khó khăn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Theo tôi nên quy định rằng mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận khi ký kết hợp đồng. Mức phạt này có thể được tòa án điều chỉnh khi có yêu cầu của một trong các bên trong trường hợp thiệt hại thực tế do vi phạm là quá thấp hoặc quá cao so với mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận. Thì sẽ phù hợp với thực tiễn và tránh được sự không thống nhất của các văn bản pháp luật hợp đồng.  (ii) Hợp đồng tặng cho còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế. Hợp đồng tặng cho là một trong những công cụ pháp lý được hình thành lâu đời nhất trong pháp luật dân sự. Trong Bộ luật dân sự 2005 hợp đồng tặng cho được coi là một trong những hợp đồng thông dụng và được quy định từ điều 465 đến 470. Như vậy, có thể nhận thấy Bộ luật dân sự 2005 chỉ dành một số lượng khiêm tốn các điều luật của hợp đồng này, có lẽ chính vì vậy nên trong thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp pháp luật không thể giải quyết được, ví dụ về bản chất của hợp đồng tặng cho, những giới hạn của hợp đồng và vấn đề hủy bỏ hợp đồng sau khi hợp đồng đã có hiệu lực. Và sau đây sẽ làm rõ những trường hợp đó. Điều 466 Bộ luật dân sự không nói rõ “nhận tài sản” là nhận tài sản về mặt pháp lý hay thực tế nhận tài sản, mặt khác, Điều 446 Bộ luật dân sự quy định, hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù còn bên tặng cho đồng ý nhận. Theo “Dương Anh Sơn, Bàn về bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2008” thì “đồng ý nhận” được nói đến trong điều 465 Bộ luật dân sự có thể là đồng ý nhận tài sản ngay tức thì và cũng có thể đồng ý nhận tài sản vào thời điểm nào đó trong tương lai. Và tôi hoàn toàn đồng ý với cách hiểu này. Nhưng một số tác giả cho rằng “nhận tài sản” được nói đến trong điều 466 là nhận tài sản thực tế. Theo tôi, nếu cho rằng hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng thực tế thì sẽ có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra mà pháp luật khó có thể giải quyết được. Vì nếu cho rằng hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế thì trước khi nhận tài sản người được tặng cho có quyền từ chối nhận tài sản và người tặng cho có quyền từ chối thực hiện hợp đồng. Vậy sẽ giải quyết như thế nào trong trường hợp việc từ chối thực hiện hợp đồng của một trong các bên gây thiệt hại cho bên kia. Ví dụ, ngày 1/5 bà A định mua ngôi nhà số 278 Điện Biên Phủ ( trị giá 3 tỷ đồng) để ở, trong lúc đó ông B hứa sẽ tặng cho bà A ngôi nhà 280 Điện Biên Phủ (trị giá 4 tỷ) vào ngày 15/5, hợp đồng được lập thành văn bản, có chứng thực. Vì lẽ được tặng nhà, nên bà A không mua ngôi nhà số 278 Điện Biên Phủ nữa. Đến ngày 14/5 ông B thông báo là không cho bà B ngôi nhà 280. Trong khi chủ ngôi nhà số 278 đã bán với giá 3 tỷ đồng cho người khác và ngày 1/5. Đến ngày 14/5 ngôi nhà 278 có giá trên thị trường là 3,2 tỷ đồng. Như vậy nếu nói rằng hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế thì ông B không có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho bà A bởi vì hợp đồng tặng cho chưa có hiệu lực pháp luật. Điều này vô lý, bởi lẽ nếu không có hợp đồng tặng cho được ký kết trước đó thì bà A đã có nhà ở và giá trị ngôi nhà sẽ được tăng thêm 200 triệu. Thông thường một người nào đó khi tặng cho người khác tài sản không phải không vì động cơ nào. Động cơ tặng cho có thể không giống nhau, nhưng tóm lại động cơ luôn thể hiện lòng tốt của người tặng cho. Song có những trường hợp, sau khi hợp đồng tặng cho đã có hiệu lực, bên được tặng cho đã nhận tài sản nhưng họ đã có hành vi trái với mong muốn, tức là ngược với động cơ của người tặng cho. Ví dụ người được tặng cho có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người được tặng cho và những người thân thích với người này, hoặc người được tặng cho sử dụng tài sản tặng cho trái với mong muốn của người tặng cho, hoặc trong một số trường hợp sau khi hợp đồng tặng cho được thực hiện thì hoàn cảnh, tình trạng gia đình, vật chất của người tặng cho có sự thay đổi cơ bản và người tặng cho lại có nhu cầu lớn về tài sản để đảm bảo cuộc sống tối thiểu của mình hoặc việc tặng cho có thể xâm hại đến quyền lợi của người khác, của xã hội… Trong trường hợp này pháp luật Việt Nam khó có cách giải quyết được bởi không có sự điều chỉnh rõ ràng. (iii) Nguyên tắc thiện chí trung thực chưa được bảo đảm. Thiện chí, trung thực là một trong những nguyên tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng được quy định trong các văn bản pháp luật của nhiều nước, pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng ghi nhận nguyên tắc này (điều 389 Bộ luật dân sự). Giữa hành vi vi phạm hợp đồng và với nguyên tắc thiện chí, trung thực có mối quan hệ hổ tương. Việc vi phạm hợp đồng cố ý là biểu hiện của sự không thiện chí, trung thực, còn vi phạm hợp đồng vô ý có thể không phải là không thiện chí trung thực. Và ta không thể phủ nhận công sức của các nhà làm luật đã phân chia lỗi cố ý và vô ý nhằm xác định hậu quả pháp lý khác nhau, với mục đích bảo đảm nguyên tắc thiện chí trung thực. Song vẫn còn nhiều điểm thiếu sót và dường như không có sự khác biệt gì trong hậu quả pháp lý giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý. Nghĩa là nguyên tắc thiện chí trung thực không được bảo đảm. Sau đây là những phân tích nhằm làm rõ nhận định trên. Thứ nhất:Xét điều 136 Bộ luật dân sự 2005 thì thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tại các điều 130, 131, 132, 133, 134 của Bộ luật là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Trong trường hợp mục đích, nội dung giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (điều 128) và giao dịch dân sự giả tạo (điều 129) thì thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu hai năm nói chung là hợp lý, song vẫn chưa ổn nếu hợp đồng được ký kết do bị lừa dối và đe dọa, vì những lẽ sau:  * Người có hành vi lừa dối trong việc ký kết hợp đồng rõ ràng có sự cố ý khi thực hiện những hành vi trái với nguyên tắc tự do tự nguyện trong giao kết hợp đồng. Lừa dối ký kết hợp đồng là một hành vi có chủ ý và những hành vi này thường được che dấu một cách khôn khéo (không khôn khéo thì không thể lừa dối được người khác). Vậy thì, với quy định nói trên thì trong trường hợp hành vi lừa dối được ngụy trang quá khéo nên một trong các bên của hợp đồng chỉ có thể biết được mình ký kết hợp đồng do bị lừa dối sau hai năm kể từ thời điểm ký kết hợp đồng, quyền lợi của người đó rõ ràng không được pháp luật bảo vệ. Trong trường hợp nói trên, người bị lừa dối không phải là đã từ chối quyền lợi của mình mà chỉ đơn giản là trong khoảng thời gian hai năm kể từ ngày ký kết hợp đồng họ hoàn toàn không biết hoặc không buộc phải biết rằng mình bị lừa dối. Ví dụ: Ông A tìm đến Bà B chuyên sản xuất giống cây trồng để mua 1000 cây xoài ghép chất lượng cao về trồng tại gia đình. Bà B biết A không thể phân biệt được xoài tốt với xoài kém chất lượng. Nên B đã lấy những cây xoài bị lỗi trong quá trình ghép cây (B biết chắc rằng những cây xoài này sẽ không ra quả, nếu ra quả thì chất lượng là rất kém). Nhưng bà B nói đây là giống xoài chất lượng cao, nhanh phát triển, và sẽ bắt đầu ra hoa kết trái sau ba năm trồng, năng suất đạt từ một tấn trên mỗi cây/một năm, thậm chí năng suất còn cao hơn rất nhiều…và nhiều lời hoa mỹ khác. Nên ông A tin tưởng và ký kết hợp đồng với B (trong hợp đồng không có cam kết về chất lượng cây của B), trong thời gian hai năm trồng cây xoài của ông A phát triển rất tốt, ông nghĩ rằng sau ba năm ông sẽ có quả để thu hoạch (như lời nói của bà B lúc giao kết hợp đồng). Nhưng sau ba năm xoài của A vẫn cứ lớn nhưng không có hoa, lúc này ông mới biết mình đã bị lừa dối. Và trong trường hợp này của ông A đã hết thời hạn kiện B. Trong trường hợp này A đã mất quyền lợi bởi quy định của pháp luật chưa hợp lý. * Tương tự như lừa dối, người có hành vi đe dọa trong việc ký kết hợp đồng rõ ràng đã có hành vi cố ý xâm phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện trong giao kết hợp đồng. Trong trường hợp hơp đồng ký kết do bị đe dọa thì pháp luật cũng không thể bảo vệ được quyền lợi của bên bị đe dọa nếu hành vi đe dọa kéo dài trong khoản hai năm kể từ ngày ký kết hợp đồng, điều này hoàn toàn có thể xảy ra trông thực tế. Ví dụ: Ông C đe dọa bà D rằng: Nếu bà không bán căn nhà bà đang ở (giá thị trường là 2 tỷ đồng) cho tôi với giá 800 triệu đồng thì tôi sẽ giết chết bà, nếu bà báo công an tôi sẽ giết cả gia đình bà. Với những lời đe dọa đó, bà D đã quyết định bán nhà cho C trong tâm trạng bị miễn cưỡng nhằm bảo vệ tính mạng của gia đình và chính mình. Trong thời gian hai năm C vẫn tiếp tục đe dọa bà D, nên D không dám kiện C. Sau khoản thời gian hai năm đó, C chấm dứt việc đe dọa D; nhưng D đã hết quyền kiện C. Theo tôi, ở đây pháp luật đã có sự dung túng cho hành vi cố tình vi phạm pháp luật. ( Điều 136 của Bộ luật dân sự 2005 chưa bảo đảm được quyền lợi của người bị vi phạm, mà còn tạo điều kiện cho những kẻ không thiện chí trung thực vi phạm trong giao kết hợp đồng mà không phải bị một chế tài nào cả. Cần nên có sự phân biệt giữa thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do nhằm lẫn (vô ý) với thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa; không nên lấy mốc là thời điểm xác lập hợp đồng mà lấy mốc là thời điểm chấm dứt sự đe dọa hay thời điểm bên bị lừa dối biết được hay buộc phải biết được mình bị lừa dối để tính thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Thứ hai:Xét điều 318 Luật thương mại 2005 quy định mốc thời hạn khiếu nại như sau: ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại số lượng của hàng hóa; sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hóa, trong trường hợp hàng hóa có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ ngày hết thời hạn bảo hành. Các quy định nói trên của Luật thương mại cho thấy: thời hạn khiếu nại được áp dụng như nhau giữa hành vi vi phạm hợp đồng cố ý cũng như vô ý. Như chúng ta đã biết về nguyên tắc, trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng và hợp đồng nói chung các bên đều bình đẳng. Song trên thực tế người bán luôn là người biết rõ ràng nhất về đặc điểm chất lượng của hàng hóa. Vì vậy, họ luôn ở vị trí có lợi hơn về thông tin so với người mua. Do đó với quy định về thời hạn như trên của pháp luật thì rất dề xảy ra trường hợp người bán cố tình giao hàng kém chất lượng cho người mua bởi vì họ biết chắc rằng, trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày giao hàng hoặc trong thời hạn ba tháng kể từ ngày hết hạng bảo hành, người mua không thể phát hiện được các khuyết tật đó của hàng hóa. Và như thế người bán không bị một chế tài nào bởi hành vi lừa dối của mình gây ra thiệt hại cho đối tác. Tôi cho rằng, ở đây cũng có hành vi dung túng cho hành vi cố tình vi phạm pháp luật. Ví dụ: E (là thương nhân lâu năm và có nhiều kinh nghiệm) và F (lần đầu tham gia kinh doanh) kí hợp đồng mua bán hàng hóa.Theo hợp đồng thì ngày 1 tháng 5 năm 2010 E giao hàng cho F. E với kinh nghiệm lâu năm của mình nên tin chắc rằng nếu giao hàng thiếu thì trong thời hạn ba tháng thì F không phát hiện ra, và giao hàng kém chất lượng thì trong vòng sáu tháng F cũng không biết. Nên đã quyết định giao hàng không đủ và kém chất lượng cho F vào ngày 1 tháng 5 năm 2010. Và đúng thế trong thời hạn ba tháng F không phát hiện được E giao thiếu hàng, trong sáu tháng thì F cũng chưa biết được hàng mình nhận là kém chất lượng. Nên F đã hết thời hạn khiếu nại E. Và trong trường hợp này E đã có được nguồn lợi thu từ thiệt hại của F bằng mánh khóe gian dối của mình. Ta thấy, trong ví dụ này người có thiện chí trung thực là F không được pháp luật bảo vệ; còn người có hành vi gian dối trong hợp đồng là E thì không có chế tài xử lý để đảm bảo công bằng. Theo tôi, cần phải có một cơ chế hợp lý để bảo đảm nguyên tắc thiện chí trung thực để đúng với ý nghĩa của nó. Và trong trường hợp này cần phải có sự quy định lại thời hạn khiếu nại như sau: Nếu người giao hàng có hành vi không thiện chí trung thực thì thời hạn được tính từ ngày người nhận hàng biết hoặc buộc phải biết về số lượng, chất lượng hàng hóa không đúng yêu cầu.  Thứ ba: Xét điều 305 Luật thương mại 2005, quy định rằng: “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.Thiết nghĩ, việc bắt buộc bên bị vi phạm là người mua phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất của hành vi cố tình vi phạm hợp đồng của người bán gây ra là điều không công bằng và hoàn toàn không trên cơ sở nguyên tắc thiện chí. Bởi lẽ việc người bán cố tình vi phạm hợp đồng cho thấy sự không trung thực và thiện chí của người bán. Nếu pháp luật bắt buộc người bị vi phạm phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất có nghĩa là pháp luật đã bắt buộc người mua phải thể hiện sự thiện chí và hợp tác của mình với người không trung thực. Mặt khác hành vi cố tình vi phạm hợp đồng chứng tỏ rằng, người vi phạm đã không muốn tiếp tục duy trì, bảo vệ mối quan hệ hợp tác với bên kia; và bên vi phạm không muốn coi hợp đồng là công cụ chia sẽ lợi ích và rủi ro với phía bên kia. Với những lý do trên, pháp luật không thể bắt bên bị vi phạm phải thể hiện sự thiện chí của mình. Ngoài ra, sẽ không bình đẳng và vô lý khi một bên trong quan hệ hợp đồng vì quyền lợi của mình đã chấp nhận vi phạm hợp đồng (cố tình vi phạm hợp đồng bởi họ thấy rằng, việc vi phạm hợp đồng của họ là có lợi hơn là phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng), rồi lại dùng pháp luật để buộc bên bị vi phạm phải tự hạn chế tổn thất nhằm giảm các khoản bồi thường thiệt hại mà người vi phạm phải trả. ( Theo tôi, pháp luật cần có sự quy định trường hợp trên như sau: “bên vi phạm hoàn toàn không có quyền viện dẫn đến việc bên bị vi phạm không áp dụng các biện pháp hạn chế tổn thất để yêu cầu giảm giá trị bồ