Tập nghiên cứu “Đổi mới quản lý kinh tế” là một ấn phẩm khoa học của CFVG. Với 9 số
đã phát hành, tập trung vào các chủ đềnghiên cứu vềkinh tếViệt Nam và thếgiới, “Đổi mới
quản lý kinh tế” đã chứng tỏlà một ấn phẩm có chất lượng và đã được nhiều độc giả(các nhà
nghiên cứu, các chuyên gia, sinh viên) trong và ngoài nước đón nhận.
Trong sốnày, với chủ đềtái cơcấu doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế ở
Việt Nam, có sự đóng góp của các tác giảtrong nước và quốc tế, các chuyên gia, giảng viên, học
viên và các cộng tác viên của CFVG.
Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệgiữa phát triển bền vững và phương thức quản lý
của các doanh nghiệp ởcác nước đang phát triển, Georges Hénault – GS Trường Đại học Tổng
hợp Ottawa (Canada) – đã chỉra sựcần thiết phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững trong hoạt
động quản lý của doanh nghiệp, kểcảcác doanh nghiệp vừa và nhỏ(DNVVN), nhằm nâng cao
khảnăng cạnh tranh của các doanh nghiệp này trong điều kiện hiện nay. Một sốhướng giải pháp
áp dụng cho các DNVVN của Việt Nam đáng đểcho Chính phủvà các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp quan tâm trong tiến trình hội nhập kinh tếthếgiới.
Bài viết của Laura Bacali – GS Trường đại học kỹthuật Cluj-Napoca (Rumani) - lại
nghiêng vềnhững thay đổi trong hoạt động quản lý của các doanh nghiệp Đông Âu trong quá
trình chuyển đổi từnền kinh tếchỉ đạo, tập trung sang nền kinh tếthịtrường những năm gần đây.
Bằng việc nghiên cứu so sánh, tác giả đã chỉra những khác nhau trong việc tiếp cận các công cụ
quản lý hiện đại và kết luận rằng áp dụng marketing hiện là mối quan tâm lớn của các doanh
nghiệp Rumani.
Bài nghiên cứu thứba bàn vềmột chủ đềquan trọng của công cuộc chuyển đổi kinh tế
Việt Nam : cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước. PGS. TS Nguyễn Đình Tài (Viện Nghiên cứu và
Quản lý Kinh tếTrung Ương) đã đi sâu phân tích vềcác doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực
ngân hàng - một lĩnh vực then chốt trong giai đoạn cổphần hoá – và đã chỉra sựcần thiết cổ
phần hoá các ngân hàng thương mại quốc doanh cùng với những điều kiện đảm bảo cho việc cổ
phần hoá này đạt được thành công.
Bài nghiên cứu thứtưtrình bày tóm tắt một luận văn thạc sĩMBA, đã được thực hiện và
bảo vệthành công tại CFVG năm 2004. Thông qua nghiên cứu trạng huống một doanh nghiệp
sau cổphần hoá, luận văn nghiên cứu này đã chỉra rằng cổphần hoá làm thay đổi không chỉcơ
cấu sởhữu vốn của doanh nghiệp, mà còn cảvăn hoá doanh nghiệp nữa.
139 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tập nghiên cứu Đổi mới quản lý kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TRUNG TÂM PHÁP VIỆT ĐÀO TẠO VỀ QUẢN LÝ
CENTRE FRANCO-VIETNAMIEN DE FORMATION A LA GESTION
ĐỔI MỚI
QUẢN LÝ
KINH TẾ
Ouverture Economique
Hà Nội – tháng 05 năm 2006
SỐ 10
TRONG SỐ NÀY
Tập nghiên cứu “Đổi mới quản lý kinh tế” là một ấn phẩm khoa học của CFVG. Với 9 số
đã phát hành, tập trung vào các chủ đề nghiên cứu về kinh tế Việt Nam và thế giới, “Đổi mới
quản lý kinh tế ” đã chứng tỏ là một ấn phẩm có chất lượng và đã được nhiều độc giả (các nhà
nghiên cứu, các chuyên gia, sinh viên) trong và ngoài nước đón nhận.
Trong số này, với chủ đề tái cơ cấu doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế ở
Việt Nam, có sự đóng góp của các tác giả trong nước và quốc tế, các chuyên gia, giảng viên, học
viên và các cộng tác viên của CFVG.
Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển bền vững và phương thức quản lý
của các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, Georges Hénault – GS Trường Đại học Tổng
hợp Ottawa (Canada) – đã chỉ ra sự cần thiết phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững trong hoạt
động quản lý của doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này trong điều kiện hiện nay. Một số hướng giải pháp
áp dụng cho các DNVVN của Việt Nam đáng để cho Chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp quan tâm trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Bài viết của Laura Bacali – GS Trường đại học kỹ thuật Cluj-Napoca (Rumani) - lại
nghiêng về những thay đổi trong hoạt động quản lý của các doanh nghiệp Đông Âu trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ đạo, tập trung sang nền kinh tế thị trường những năm gần đây.
Bằng việc nghiên cứu so sánh, tác giả đã chỉ ra những khác nhau trong việc tiếp cận các công cụ
quản lý hiện đại và kết luận rằng áp dụng marketing hiện là mối quan tâm lớn của các doanh
nghiệp Rumani.
Bài nghiên cứu thứ ba bàn về một chủ đề quan trọng của công cuộc chuyển đổi kinh tế
Việt Nam : cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. PGS. TS Nguyễn Đình Tài (Viện Nghiên cứu và
Quản lý Kinh tế Trung Ương) đã đi sâu phân tích về các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực
ngân hàng - một lĩnh vực then chốt trong giai đoạn cổ phần hoá – và đã chỉ ra sự cần thiết cổ
phần hoá các ngân hàng thương mại quốc doanh cùng với những điều kiện đảm bảo cho việc cổ
phần hoá này đạt được thành công.
Bài nghiên cứu thứ tư trình bày tóm tắt một luận văn thạc sĩ MBA, đã được thực hiện và
bảo vệ thành công tại CFVG năm 2004. Thông qua nghiên cứu trạng huống một doanh nghiệp
sau cổ phần hoá, luận văn nghiên cứu này đã chỉ ra rằng cổ phần hoá làm thay đổi không chỉ cơ
cấu sở hữu vốn của doanh nghiệp, mà còn cả văn hoá doanh nghiệp nữa.
2
Bài tiếp theo cũng là tóm tắt một luận văn thạc sĩ MBA CFVG, nghiên cứu về chủ đề thiết
lập hệ thống lương phù hợp với bối cảnh doanh nghiệp sau cổ phẩn hoá. Tác giả đã khảo sát thực
trạng một doanh nghiệp cụ thể và khuyến cáo sự cần thiết phải thiết lập một hệ thống lương linh
hoạt cho phép tạo động lực cho nhân viên tham gia vào sự phát triển của doanh nghiệp.
Cuối cùng, bài nghiên cứu của Trương Thị Nam Thắng (CFVG-Hà Nội) nhằm mục đích
tìm hiểu một số bài học rút ra từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Trung
Quốc, dưới giác độ quản trị công ty. Kết quả nghiên cứu chỉ ra nhiều sự tương đồng trong quá
trình cổ phần hoá ở Trung Quốc và Việt Nam, và đề xuất một số kiến nghị đối với Chính phủ và
các doanh nghiệp Việt Nam nhằm đảm bảo thành công cho quá trình cổ phần hoá hiện nay.
3
DANS CE NUMERO
L’Ouverture Economique est une publication scientifique du CFVG. Avec ses 8 derniers
numéros, focalisant sur les thèmes de recherche de l’économie vietnamienne et mondiale,
l’Ouverture Economique est une publication de qualité et retient beaucoup d’attention des
lecteurs (chercheurs, praticiens, étudiants) au Vietnam et à l’étranger.
Ce présent numéro, portant sur le thème principal de la restructuration des entreprises
dans le contexte de transition de l’économie vietnamienne, réunit les communications des
chercheurs vietnamiens et étrangers, professionnels et étudiants, intérieur et extérieur au CFVG.
En examinant les liens entre le développement durable et le mode de gestion des
entreprises dans les pays en développement, Georges Hénault – professeur titulaire à l’Université
d’Ottawa (Canada)- a montré la nécessité de prendre en compte des enjeux de développement
durable dans la pratique de gestion chez les entreprises, y compris les PME, afin d’atteindre une
meilleure compétitivité dans le contexte actuel. Quelques pistes de réflexion proposés aux PME
vietnamiennes méritent une attention particulière de la part du gouvernement vietnamien ainsi
que des dirigeants de PME dans son processus d’intégration à l’économie mondiale.
L’étude de Laura Bacali – professeur à l’Université Technique de Cluj-Napoca
(Roumanie) - se concentre sur les changements, dans la pratique de gestion chez les entreprises
dans les pays d’Europe de l’Est, résultés de la transition d’une économie dirigée à celle de
marché ces dernières années. Une étude comparative nous montre qu’il y a certaines différences
dans l’application des outils modernes de gestion dans chaque pays et que l’application du
marketing reste un besoin important chez les entreprises roumaines.
La troisième communication porte sur un sujet important de la transition économique au
Vietnam : l’actionnarisation des entreprises étatiques. Prof. Associé. Docteur Nguyen Dinh Tai
(ICGE) a réalisé une étude approfondie sur les entreprises étatiques du secteur bancaire – un
secteur particulièrement sensible dans cette période de transition – et a révélé qu’une nécessité
d’actionnariser les banques commerciales étatiques ainsi que les conditions de réussite pour une
telle initiative.
Le quatrième article est le résumé d’un mémoire de recherche au niveau de MBA, réalisé
et soutenu avec succès au CFVG en 2004. Ce travail, qui s’est basé sur une étude de cas d’une
entreprise actionnarisée, a montré que l’actionnarisation a fait changer non seulement la structure
de propriété des capitaux de l’entreprise, mais aussi la culture d’entreprise de celle-ci.
4
Le cinquième article est également un résumé de mémoire de recherche au niveau de
MBA, portant sur la question d’établissement d’un système de salaire adapté au contexte des
entreprises d’après actionnarisation. Cette recherche s’est focalisée sur un cas concret
d’entreprise et a recommandé qu’il est nécessaire d’établir un système flexible permettant de
mieux mobiliser le personnel au développement de l’entreprise.
En fin, la recherche de Truong Thi Nam Thang (CFVG-Hanoi) a pour but de retirer des
expériences du processus de l’actionnarisation des entreprises étatiques en Chine, sous l’angle de
gouvernance d’entreprise. L’étude a montré qu’il y a plusieurs similitudes entre la Chine et le
Vietnam, et a ainsi proposé des recommandations à destination du gouvernement et entreprises
vietnamiennes afin d’assurer une actionnarisation réussite.
5
IN THIS ISSUE
The research papers collection “Ouverture Economique” is a scientific publication of
CFVG. The 8 first issues concentrated on the topics of Vietnamese and world economies.
“Ouverture Economique” is considered to be a prestigious publication and welcomed by readers
(researchers, experts, students) locally and from abroad.
This issue is specialised in the topic of enterprises restructuring in the context of
economic transition in Vietnam. The issue has received the contribution of papers from local and
foreign researchers who are both experts and students, inside and outside CFVG.
By studying the relationship between sustainable development and management methods
of enterprises in developing countries, Georges Hénault – professor of Ottawa University – has
concluded the needs of taking into account the sustainable development in management activities
by companies, including SMEs, in order to improve the competitiveness in the present context.
Some solutions to be applied to SMEs in Vietnam were recommended; these could be useful for
the Vietnamese government and enterprises leaders to refer to for their own use in the current
international economic integration.
The paper of Laura Bacali – professor of the Technical University Cluj-Napoca, Rumania
– emphasised on the changes in the management of East European enterprises in the
transformation process from planned to market economy in recent years. By using a comparative
study, the author has shown the differences in the approaches to the modern management tools
and concluded that the marketing application is a great interest of Rumanian enterprises.
The third research studied an important topic of the economic transition in Vietnam: the
equitisation of state owned enterprises. Dr. Nguyen Dinh Tai (Central Institute of Economic and
Management) has studied in depth the state owned enterprises from banking sector – a key sector
in the Vietnamese equitisation – and has shown the necessity of equitising the state commercial
banks and the conditions to be applied for the success of their equitisation.
The fourth paper is a summary of MBA dissertation which has been realised and
successfully defensed at CFVG in 2004. Through the case study of a post-equitised company, this
dissertation has shown that the equitisation has not only changed the ownership structure but also
the corporate culture.
6
The following paper is also a summary of a MBA dissertation. This researched a
compatible salary scheme in the post-equitisation context. The author has conducted a survey on
the current situation of the enterprise and recommended to establish a dynamic salary scheme to
motivate the employees contributing to the development of the enterprise.
Finally, a research was made by Truong Thi Nam Thang (CFVG-Hanoi) for the purpose
of learning some lessons from the corporatisation of state owned enterprises in China from the
perspective of corporate governance. The results have shown the shared commonities in the
equitisation in both China and Vietnam, and have recommended some suggestions towards the
Vietnamese government and enterprises in order to ensure the successful equitisation in the
country.
7
Trang
1
17
31
Quản lý trong nền kinh tế chuyển đổi
Phát triển bền vững : một trào lưu hay một phương
thức quản lý tất yếu đối với DNVVN trong chuyển
đổi kinh tế, áp dụng vào Việt Nam.
Georges Hénault
Quản trị và phát triển trong quá trình chuyển đổi.
Laura Bacali
Tái cơ cấu doanh nghiệp trong điều
kiện chuyển đổi kinh tế
Được mất cổ phần hoá ngân hàng thương mại quốc
doanh.
Nguyễn Đình Tài
Thay đổi văn hoá doanh nghiệp tại SEAREFICO,
một doanh nghiệp mới cổ phần hoá.
Bùi Quốc Liêm & Trương Thị Nam Thắng
Đề xuất hệ thống thù lao cho doanh nghiệp mới cổ
phần hoá tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đoàn Nguyễn Ngọc Quỳnh & Trần Vân Như
Những bài học từ quá trình công ty hoá doanh nghiệp
nhà nước ở Trung quốc : phân tích dưới giác độ quản
trị công ty.
Trương Thị Nam Thắng
MỤC LỤC
44
74
96
8
Pages
1
Le management en transition
Le développement durable : une mode ou un mode de
gestion irréversible pour les PMEs des pays en
transition avec quelques applications au Vietnam.
Georges Hénault
Management et développement en transition.
Laura Bacali
La restructuration des entreprises
dans le contexte de transition
Les enjeux de l’actionnarisation des banques
commerciales étatiques.
Nguyen Dinh Tai
Changing Corporate Culture at SEAREFICO, a
Newly-Equitized Enterprise.
Bui Quoc Liem & Truong Thi Nam Thang
Suggesting Salary Scheme for Newly-Equitized
Companies in HCM City.
Doan Nguyen Ngoc Quynh & Tran Van Nhu
Learning from the Corporatisation of SOEs in China :
A Coporate Governance Perspective.
Truong Thi Nam Thang
SOMMAIRE
17
31
44
74
96
9
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG : MỘT TRÀO LƯU HAY PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ TẤT
YẾU ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TRONG CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ, ÁP DỤNG VÀO
TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM?
Georges Hénault
GS Trường Quản lý
Đại học TH Ottawa
Từ khoá : Phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội, các bên hữu quan, nguyên tắc phòng ngừa,
quản lý, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
TÓM TẮT :
Phát triển bền vững nhấn mạnh đến các khía cạnh kinh tế, bảo vệ môi trường và trách
nhiệm xã hội, là xu hướng phát triển tất yếu hiện nay của tất cả các nền kinh tế quốc gia. Tuy
nhiên, đây không chỉ là mối quan tâm riêng của các nhà chính trị hoặc của các doanh nghiệp lớn,
mà trước hết nó là một phương thức quản lý tất yếu và hiệu quả cần triển khai trong các doanh
nghiệp ở mọi qui mô, đặc biệt là trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khuyến khích tiếp cận phát
triển bền vững theo cấp độ kinh tế vùng, tiếp cận thông tin theo mạng và đào tạo về phát triển bền
vững là các hướng giải pháp mà tác giả đề xuất áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt nam dưới ánh sáng của lý thuyết trách nhiệm xã hội, lý thuyết về các bên hữu quan và
nguyên tắc phòng ngừa.
1
GIỚI THIỆU
Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là sự bảo vệ môi trường vốn được xem như là
trách nhiệm của Nhà nước và của các doanh nghiệp lớn theo quan điểm của chủ nghĩa tân tự do
châu Âu. Nó còn bao gồm cả nghĩa vụ đạo đức « vững mạnh về kinh tế, lành mạnh về môi trường
và trách nhiệm với xã hội » đối với các doanh nghiệp này. Phát triển bền vững cũng liên quan đến
xã hội dân sự và đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo nghĩa rộng, bao gồm cả các tổ
chức dạng hợp tác xã, hiệp hội và tất nhiên là không thể bỏ qua các doanh nghiệp nhỏ chính thức
hoặc không chính thức.
Sự cần thiết phải phát triển bền vững được khẳng định ngay trong các nghị quyết của Hội
nghị về môi trường của Liên Hiệp Quốc họp tại Stockholm (1972) và được khẳng định lại trong
các Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất tại Rio (1992) và Johannesburg (2002). Chương trình nghị
sự 21 (Agenda 21) của Liên Hiệp Quốc đặt ra thách thức phải dung hoà ba yếu tố (3E) : bảo vệ
môi trường (Environnement) và phát triển kinh tế (Economique) cùng với công bằng xã hội
(Équité). Phát triển bền vững cũng tỏ ra hài hoà với các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ do Liên
Hiệp Quốc khởi xướng và các kết luận của Hội nghị Thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp lần
thứ 9 tại Beyrouth, là cơ sở cho các nghị quyết của Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 10 tại
Ouagadougou.
Bằng việc nhấn mạnh khía cạnh khoa học luận về các khái niệm tiên tiến của lý thuyết các
bên hữu quan, lý thuyết về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp cùng với việc nhấn mạnh
nguyên tắc thận trọng, mục đích của bài viết này là nhằm làm rõ nền tảng cơ bản của một chiến
lược phát triển bền vững cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), nhất là ở các nước đang
chuyển đổi với một số ví dụ về Việt Nam.
PHÁT TRỂN BỀN VỮNG, MỘT PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ TOÀN DIỆN VÀ LÂU DÀI
Một xu hướng rõ nét đánh dấu triển vọng của một phương thức quản lý đang hoàn thiện
(chứ không phải một trào lưu nhất thời). Đây là một chiến lược phát triển bền vững xoay quanh
bốn P theo đó sự tiến bộ (Progrès) của các tổ chức đạt được thông qua sự tôn trọng con người
(Personne), tôn trọng hành tinh (Planète) và đảm bảo có lợi (Profits) (Laville, 2002).
Từ đó, chúng ta chỉ ra rằng phát triển bền vững vượt ra ngoài sự tôn trọng môi trường
theo nghĩa sinh thái học. Triết lý quản lý mới này được dựa trên hai lý thuyết và một nguyên tắc :
lý thuyết trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, lý thuyết về các bên hữu quan (stakeholders) và
nguyên tắc thận trọng mà chúng ta đã sơ lược đề cập ở trên.
Về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vốn đã từng là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận
trong nửa cuối thế kỷ 20, dường như đã được thừa nhận như là một phần không thể tách rời trong
sứ mạng và tầm nhìn chiến lược của các doanh nghiệp (www.wbcsd.org).
Trường phái đạo đức kinh doanh kiểu Mỹ đã nêu bật bốn loại trách nhiệm : trách nhiệm
kinh tế (sản xuất sản phẩm dịch vụ và tạo ra lợi nhuận), trách nhiệm pháp lý (nghĩa vụ pháp lý đã
được quy tắc hoá cần tuân thủ), trách nhiệm đạo đức (nghĩa vụ đạo đức không được quy tắc hoá)
2
và tự chịu trách nhiệm (hành vi vượt trên sự kỳ vọng của xã hội); tuy nhiên bốn loại trách nhiệm
này không phải là duy nhất. (Ballet, J. et De Bry, F., 2001). Chúng ta cũng có thể hiển thị theo
cách thức của Maslow và đặt nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận xuống dưới cùng của tháp Maslow, sau
đó đến sự tuân thủ pháp luật, rồi đến hành vi đạo đức và trên cùng là nghĩa vụ xã hội, như trong
hình 1 dưới đây.
Hình 1 : Các cấp độ trách nhiệm của doanh nghiệp
ĐẠO ĐỨC
KINH TẾ
PHÁP LÝ
XÃ HỘI
Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đòi hỏi từ phía các doanh nghiệp một hành vi đạo đức,
một số tác giả thậm chí đã đề xuất một cuộc cách mạng công nghiệp mới dựa trên cơ sở « chủ
nghĩa tư bản tự nhiên » xuất phát từ hệ tiến hoá sau đây : môi trường không phải là một nhân tố
sản xuất thứ yếu mà nó bao bọc, cung cấp và hỗ trợ toàn bộ nền kinh tế (Hawken, P., Lovins A.
and Hunter-Lovins, L., 1999).
Các bên hữu quan : đối tác quan trọng của phát triển bền vững.
Các phân tích thể chế nghiên cứu phản ứng của các doanh nghiệp đối với các sức ép bên
ngoài dựa trên nguyên tắc tính hợp pháp xã hội, theo đó, xã hội trao cho họ quyền tiến hành sản
xuất với điều kiện phải phù hợp với các tiêu chuẩn luật pháp và đạo đức hiện tại (Ballet et De
Bry, 2001). Trong khi đó, tính hợp pháp xã hội này lại có quan hệ chặt chẽ với sự nhận thức và
lợi ích không chỉ của các đối tác của doanh nghiệp mà còn của các thành viên trong xã hội dân
sự, từ đây được gọi chung là các bên hữu quan. Freeman (1984) đã cụ thể hoá khái niệm này khi
khẳng định “một bên hữu quan trong một tổ chức (theo định nghĩa) là mọi nhóm hoặc cá nhân có
ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức”. Sơ đồ sau đây tổng
hợp các bên hữu quan cùng với các thị trường khác nhau.
Hình 2 : Các bên hữu quan và thị trường của họ
Bên hữu quan Thị trường
Thượng nguồn
Cổ đông
Nhà cung cấp
Tài chính
Cung ứng
Nội bộ / Bên ngoài
Nhân viên
Nguồn nhân lực
Hạ nguồn
Khách hàng
Tiêu dùng
3
Xã hội dân sự Dư luận xã hội
Vai trò và sức ép của các bên hữu quan đòi hỏi doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phát
triển bền vững ngày càng trở thành một ưu tiên và sẽ được cụ thể hoá trong phần sau.
Nguyên tắc phòng ngừa
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Rio năm 1992, nguyên tắc phòng ngừa được khẳng định là
điều cốt yếu trong quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về hệ sinh thái. Nguyên tắc này dựa trên yêu
cầu ngày càng cấp bách sau một loạt các thảm hoạ (Bohpal, Tchernobyl, vv...) mà thế giới đã
phải gánh chịu và buộc những người có trách nhiệm phải tính đến nhu cầu này trong việc đánh
giá các rủi ro tiềm năng. Nguyên tắc phòng ngừa này là một dấu mốc mới trong quản lý rủi ro, nó
không đợi đến khi các mối nguy hiểm xuất hiện mà chủ động đưa ra các phương tiện phòng ngừa
với chi phí có thể chấp nhận (Canel-Depitre, B., 2001).
SỨC ÉP ĐI THEO CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐỐI VỚI CÁC DNVVN
TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Hai quan niệm sai lầm cần loại bỏ
Chúng liên quan đến các nguyên nhân cưỡng lại sự thay đổi của những người có trách
nhiệm và do đó phủ nhận cơ sở của phát triển bền vững đối với chính doanh nghiệp của họ.
Trong số các quan niệm này phải kể đến một niềm tin lệch lạc rằng các DNVVN không liên quan
đến vấn đề phát triển bền vững và nhất là đối với những DNVVN tại các nước đang phát triển
(Laville, 2002) .
1- Các DNVVN không có phương tiện để thực hiện chính sách này. Một lập luận dối trá bởi vì
về quan niệm hiệu quả môi trường (éco-efficacité) chẳng hạn, nó nhắm tới việc giảm tiêu hao
năng lượng, giảm thiểu việc tạo