Tóm tắt: Việt Nam mới đây đã chính thức tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Tham gia TPP, Việt Nam có nhiều lợi ích trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu, thu hút đầu tư, mở rộng lĩnh vực dịch vụ tài chính, thuận lợi trong tiếp cận
thị trường các nước Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, Việt Nam cũng phải đối
mặt với những thách thức không nhỏ như: về môi trường pháp lý, thể chế; về cạnh
tranh, thương mại hàng hoá; về tài chính ngân hàng; về mở cửa thị trường mua sắm
công, v.v. Tác giả bài viết cho rằng, để chủ động khai thác, tận dụng có hiệu quả lợi
ích gia nhập TPP; đồng thời thích ứng và vượt qua những thách thức từ Hiệp định này,
Việt Nam cần có các giải pháp mạnh mẽ từ phía Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.
9 trang |
Chia sẻ: thanhlam12 | Lượt xem: 678 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tham gia TPP: Thách thức và giải pháp đối với nền kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Văn Vũ, Lê Thị Thúy
3
Tham gia TPP: Thách thức và giải pháp
đối với nền kinh tế Việt Nam
Ngô Văn Vũ *
Lê Thị Thúy **
Tóm tắt: Việt Nam mới đây đã chính thức tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Tham gia TPP, Việt Nam có nhiều lợi ích trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu, thu hút đầu tư, mở rộng lĩnh vực dịch vụ tài chính, thuận lợi trong tiếp cận
thị trường các nước Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, Việt Nam cũng phải đối
mặt với những thách thức không nhỏ như: về môi trường pháp lý, thể chế; về cạnh
tranh, thương mại hàng hoá; về tài chính ngân hàng; về mở cửa thị trường mua sắm
công, v.v.. Tác giả bài viết cho rằng, để chủ động khai thác, tận dụng có hiệu quả lợi
ích gia nhập TPP; đồng thời thích ứng và vượt qua những thách thức từ Hiệp định này,
Việt Nam cần có các giải pháp mạnh mẽ từ phía Nhà nước, người dân và doanh
nghiệp.
Từ khóa: Khu vực hóa; toàn cầu hóa; hội nhập quốc tế; Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương.
1. Mở đầu
Tháng 2 năm 2016, TPP chính thức
được ký kết giữa 12 nước thành viên, gồm:
Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore, Mỹ và Việt Nam, với tổng dân
số là 790 triệu người, tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) khoảng 28.000 tỉ USD, khoảng
40% GDP toàn cầu và 1/3 thương mại thế
giới. Theo một nghiên cứu định lượng của
Trung tâm Đông - Tây (East-West Center)
thì tác động của TPP trong thời gian đầu là
tương đối nhỏ, song đến năm 2025, TPP có
thể đem lại gia tăng thu nhập cho nền kinh
tế toàn cầu lên đến 104 tỷ USD [9]. Đối
với Việt Nam, theo tính toán của các
chuyên gia kinh tế, TPP sẽ giúp GDP của
Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm
2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Xuất
khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào
năm 2025 [10].
Khác so với cam kết trong Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) và các hiệp
định thương mại tự do (FTA) đã ký trước
đây, TPP có mức độ cam kết mở cửa thị
trường cao hơn, đưa ra các tiêu chuẩn toàn
diện hơn, cân bằng lợi ích về thương mại
hàng hóa, dịch vụ đầu tư, bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ và những cam kết về thể chế
kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước,
mua sắm công...(*)nhằm tạo ra một môi
trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh
công bằng. TPP được coi là một FTA thế hệ
mới, đánh dấu bước quan trọng hướng tới
mục tiêu cuối cùng là tự do hóa thương mại
và hội nhập trong toàn khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương. Bài viết nêu nội dung cơ
bản của TPP, phân tích những thách thức và
(*) Tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
ĐT: 0912184386. Email: ngovu68@gmail.com.
(**) Tiến sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016
4
đề xuất một số giải pháp đối với Việt Nam
khi gia nhập TPP.
2. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương
TPP gồm 30 chương điều chỉnh thương
mại và các vấn đề liên quan thương mại.
Ngoài phần mở đầu về các điều khoản và
định nghĩa chung, phần cuối về các ngoại
lệ, các chương quy định cụ thể trong các
lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của
Hiệp định, những nội dung cơ bản của TPP
bao gồm [5, tr.4]:
(1) Thương mại hàng hóa: xóa bỏ hoặc
cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan đối với hàng hóa công nghiệp; xóa bỏ
hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách
mang tính hạn chế đối với hàng hóa nông
nghiệp; xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông
nghiệp; nâng cao tính minh bạch trong vận
hành doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xuất
khẩu và trong các hoạt động công nghệ sinh
học nông nghiệp.
(2) Dệt may: xóa bỏ thuế quan đối với
hàng dệt may; quy định cụ thể về việc sử
dụng sợi và vải từ khu vực TPP, cũng như
từ bên ngoài theo cơ chế “nguồn cung
thiếu hụt”.
(3) Quy tắc xuất xứ: TPP thống nhất một
bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một
hàng hóa cụ thể được hưởng thuế quan ưu
đãi giữa các nước thành viên, bảo đảm
doanh nghiệp hoạt động dễ dàng xuyên khu
vực thông qua một hệ thống chung về chứng
minh và kiểm tra xuất xứ hàng hóa TPP.
Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều
luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này
(như: chất lượng thực phẩm, an toàn lao
động...).
(4) Quản lý hải quan và thuận lợi hóa
thương mại: thúc đẩy tạo thuận lợi cho
thương mại; nâng cao tính minh bạch trong
thủ tục hải quan, xử phạt; cung cấp thông
tin nhằm hỗ trợ thực thi Luật Hải quan.
(5) Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch
động thực vật (SPS); hàng rào kỹ thuật
thương mại (TBT) và phòng vệ thương mại:
bảo đảm các quy định về SPS, các tiêu
chuẩn kỹ thuật được đưa ra dựa trên căn cứ
khoa học, mang tính minh bạch, không
phân biệt đối xử, không tạo ra rào cản đối
với thương mại.
(6) Đầu tư: các cam kết nghĩa vụ dựa
trên cơ sở một “danh mục chọn - bỏ”, nghĩa
là thị trường các nước mở hoàn toàn đối với
nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi có ngoại lệ
theo các phụ lục đính kèm.
(7) Thương mại dịch vụ qua biên giới;
dịch vụ tài chính: không áp dụng hạn chế
định lượng đối với việc cung cấp dịch vụ;
mở cửa thị trường đầu tư qua biên giới, bảo
đảm duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với
các tổ chức và thị trường tài chính, thực
hiện các biện pháp khẩn cấp khi xảy ra
khủng hoảng.
(8) Viễn thông thương mại điện tử: bảo
đảm mạng viễn thông hiệu quả và đáng tin
cậy; ngăn chặn tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà sản xuất hoặc các nhà cung cấp
dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ
thuật số.
(9) Mua sắm của chính phủ: mở cửa thị
trường mua sắm chính phủ thông qua các
quy định công bằng, minh bạch, có thể dự
đoán và không phân biệt đối xử.
(10) Chính sách cạnh tranh: bảo đảm
khung khổ cạnh tranh bình đẳng thông qua
yêu cầu duy trì hệ thống luật pháp; cấm
những hành vi kinh doanh phi cạnh tranh,
gian lận thương mại và lừa đảo, gây thiệt
hại cho người tiêu dùng...; hợp tác thực thi
Luật Cạnh tranh thông qua thông báo, tham
vấn hoặc trao đổi thông tin.
(11) Doanh nghiệp nhà nước: bảo đảm
DNNN hoạt động thương mại trên cơ sở
tính toán thương mại, trừ nhiệm vụ cung
cấp dịch vụ công; các DNNN hoặc đơn vị
độc quyền không có hoạt động phân biệt
Ngô Văn Vũ, Lê Thị Thúy
5
đối xử với các doanh nghiệp, hàng hoá dịch
vụ của thành viên khác.
(12) Sở hữu trí tuệ: quy định cụ thể về
tiêu chuẩn, các cam kết liên quan bằng sáng
chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương
mại, các hình thức khác của quyền sở hữu
trí tuệ và các lĩnh vực đồng ý hợp tác.
(13) Lao động, môi trường: thừa nhận
mối liên hệ giữa quyền của người lao động
với thương mại, duy trì trong luật và thông
lệ các quyền cơ bản của người lao động,
xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ
em, xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm và
nghề nghiệp. Cam kết mạnh mẽ bảo vệ và
bảo tồn môi trường, hợp tác giải quyết các
thách thức về môi trường.
(14) Doanh nghiệp vừa và nhỏ: quy định
thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và nhỏ
để rà soát mức độ hỗ trợ của TPP cho các
doanh nghiệp; cân nhắc các cách thức để
nâng cao hơn nữa những lợi ích của Hiệp
định và giám sát các hoạt động hợp tác
hoặc nâng cao năng lực; chia sẻ thông tin.
Ngoài ra, TPP còn có các quy định cụ thể
liên quan đến các vấn đề nhập cảnh tạm
thời của nhà kinh doanh; hợp tác và nâng
cao năng lực; gắn kết môi trường chính
sách; minh bạch hóa và chống tham nhũng;
các điều khoản về hành chính và thể chế;
giải quyết tranh chấp.
Những quy định trên đây của TPP thể
hiện mạnh mẽ sự cam kết của các nước
thành viên về hàng loạt những thỏa thuận
mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư, sở hữu trí tuệ, đầu tư công, điều kiện lao
động,... mà trước đây có nhiều khác biệt
giữa các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản và
các nước có trình độ phát triển thấp, trong
đó có Việt Nam. Việt Nam tham gia TPP
được đánh giá là nước hưởng lợi nhiều nhất
trên cả 3 lĩnh vực: tiêu dùng, đầu tư và xuất
khẩu. Mục tiêu của TPP là xóa bỏ hàng rào
thuế quan đến 90% các dòng thuế có thể về
mức 0%, do vậy các hàng hóa có chất
lượng cao từ Mỹ, Nhật Bản, Australia, New
Zealand vào Việt Nam sẽ kích thích tiêu
dùng nhờ giá cả phù hợp. Bên cạnh đó, điều
kiện lao động được cải thiện chắc chắn sẽ
nâng cao thu nhập cho người lao động, nhờ
vậy khuyến khích tiêu dùng. Cùng với sự
tăng cường đầu tư của các nhà đầu tư trong
nước, các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào
Việt Nam. Xuất khẩu được hưởng lợi nhất
từ TPP, những mặt hàng chủ yếu là hàng
dệt may và thủy sản do thị trường rộng mở
với những điều kiện gần như là thuận lợi
nhất [6, tr.2]. Những lợi ích to lớn từ TPP
mang lại cho Việt Nam là rất rõ ràng, song
những thách thức đặt ra cho Việt Nam cũng
không nhỏ.
3. Những thách thức với nền kinh tế
Việt Nam
3.1. Về môi trường pháp lý, thể chế
TPP đòi hỏi một môi trường kinh doanh
minh bạch và có tính cạnh tranh cao. Do
vậy, khi tham gia TPP, Việt Nam phải đổi
mới về mặt thể chế, bộ máy chính quyền và
cộng đồng doanh nghiệp để có thể tham gia
cuộc chơi này. Trên thực tế cho thấy, nhờ
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, nhất
là từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có
bước tiến dài sau khi hoàn thiện khung
pháp lý, sửa đổi, bổ sung một số đạo luật
mới, quan trọng như: Luật Cạnh tranh (năm
2004), Luật Thương mại (năm 2005), Luật
Sở hữu trí tuệ (năm 2005), Luật Đàm phán
ký kết và Gia nhập các điều ước quốc tế
(năm 2005), Luật Luật sư (2006, sửa đổi
năm 2012), Luật Phá sản (năm 2014), Luật
Doanh nghiệp (2014), Luật Đầu tư (2014)...
Nhưng việc triển khai luật này vẫn còn
chậm so với yêu cầu đặt ra và chưa thực sự
đáp ứng các yêu cầu cao của hội nhập quốc
tế nói chung và tham gia TPP nói riêng. Hệ
thống các quy định của Việt Nam nhìn
chung chưa phát triển bằng những hệ thống
quy định của các nước khác thành viên
TPP. Do đó, việc đưa hệ thống quy định lên
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016
6
một mức tương xứng với các bên khác là
một thách thức.
Quá trình triển khai thực hiện chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
chưa được mạnh mẽ, đồng bộ trong thực
tiễn. Bộ máy quản lý nhà nước còn tương
đối cồng kềnh; người lao động, kể cả cán
bộ lãnh đạo quản lý có tư duy đổi mới hạn
chế, nhận thức về kinh tế thị trường, cạnh
tranh thị trường không sâu, dẫn đến thực
hiện đổi mới ở nhiều nơi thiếu kiên quyết,
triệt để.
Tham gia TPP, thực hiện các cam kết
của hiệp định này đặt ra một sức ép rất lớn
đối với việc kiện toàn khung khổ pháp luật
và chỉ tiêu theo tiêu chuẩn quốc tế. Các văn
bản luật quy định chế tài xử phạt đối với
các vi phạm về luật sở hữu trí tuệ, môi
trường... chưa được điều chỉnh cho phù hợp
để đảm bảo thực thi cam kết của Việt Nam
đối với các bên tham gia TPP. Để bảo hộ
hàng hóa trong nước, Việt Nam vẫn còn
thiếu biện pháp sử dụng hàng rào phi thuế
quan. Nếu rào cản kỹ thuật chưa có, hoặc
yếu kém, các biện pháp vệ sinh dịch tễ
không bảo đảm sẽ khiến Việt Nam trở
thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất
lượng thấp.
3.2. Về cạnh tranh, thương mại hàng hoá
Tham gia TPP, nền kinh tế Việt Nam
chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Việt Nam có
thế mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy
nhiên ở một số ngành nghề, sản phẩm hàng
hóa chưa tốt. Ví dụ như, ngành chăn nuôi,
các mặt hàng xuất khẩu nông sản, khoáng
sản chủ lực của Việt Nam (dưới dạng thô
hoặc sơ chế, cho giá trị gia tăng thấp) do
quy mô sản xuất nhỏ lẻ, năng suất lao động
thấp, áp dụng tiến bộ khoa học hạn chế, phụ
thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, nên có
giá thành sản phẩm cao. Đây sẽ là ngành,
hàng hóa gặp nhiều khó khăn nhất khi TPP
có hiệu lực.
Theo cam kết, các nước TPP phải thực
hiện mở cửa tự do thị trường đầu tư, dịch
vụ, thương mại. Thực hiện cam kết này sẽ
dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng
hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt
Nam với giá cạnh tranh, trong khi rào cản
kỹ thuật của Việt Nam chưa có hoặc không
cao; điều đó làm cho hàng hóa Việt Nam
trên thị trường nội địa gặp bất lợi. Ví dụ, ở
thị trường Việt Nam hiện nay nhiều loại
gạo chất lượng cao của Thái Lan, Nhật Bản
đang chiếm lĩnh thị phần [3, tr.6]. Đối với
những mặt hàng chủ lực như dệt may và da
giầy xuất khẩu thì phải đáp ứng quy định về
chứng minh xuất xứ nội khối, không sử
dụng các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài
thành viên TPP, ví dụ như ngành dệt may
của Việt Nam là ngành xuất khẩu chủ lực
nhưng 75% nguyên vật liệu nhập từ Trung
Quốc, trong khi đó Trung Quốc không tham
gia TPP. Do công nghiệp phụ trợ của Việt
Nam chưa phát triển nên rất nhiều ngành
sản xuất khác của Việt Nam cũng ở trong
hoàn cảnh tương tự không được hưởng ưu
đãi thuế quan. Trong khi đó, phần lớn hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam tuy tăng
trưởng nhanh, nhưng lại dễ bị tổn thương
trước biến động từ bên ngoài, như giá cả thị
trường thế giới, sự xuất hiện rào cản thương
mại mới, hàng rào phi thuế quan của các
nước nhập khẩu như dư lượng hoá chất, bao
bì, nhãn mác,...
3.3. Về tài chính ngân hàng
Tham gia TPP, mặc dù có những giới
hạn nhất định cho việc mở cửa thị trường
ngân hàng, nhưng các điều kiện để tiếp cận
thị trường trong lĩnh vực này sẽ dần được
xoá bỏ. Đây có thể được coi như một thách
thức của các nước đang phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng. Hệ thống
ngân hàng Việt Nam tuy đã có những tiến
bộ, nhưng vẫn còn yếu kém, nợ xấu, năng
lực quản lý thấp, quản trị rủi ro tại các ngân
hàng còn nhiều bất cập... Tính đến đầu năm
Ngô Văn Vũ, Lê Thị Thúy
7
2016, cả nước có 9.673 chi nhánh và phòng
giao dịch ngân hàng thương mại. Hệ thống
máy ATM, máy chấp nhận thanh toán thẻ
(POS), các kênh Internet banking, Mobile
banking được các ngân hàng chú trọng phát
triển. Tuy vậy, nếu so sánh với một số nước
trong khu vực và trên thế giới nói chung thì
khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại
Việt Nam còn chưa cao, mức độ phân bố
các chi nhánh và phòng giao dịch chưa
đồng đều.
Đánh giá chung về kinh tế Việt Nam,
Ngân hàng Thế giới cho hay, ở trung hạn,
kinh tế Việt Nam phát triển tích cực, nhưng
vẫn còn tiềm ẩn một số rủi ro. Mất cân đối
tài khóa kéo dài đang gây quan ngại trong
bối cảnh nợ công tăng. Tình hình thu ngân
sách năm 2015 đến nay cho thấy áp lực tài
khóa còn tiếp diễn với thâm hụt ngân sách
(tính cả trả nợ gốc) dự tính chiếm 5,6%
GDP trong nửa đầu năm 2015. Điều đó thể
hiện thu ngân sách hiệu quả kém trong khi
chi thường xuyên và chi đầu tư cơ bản tăng.
Tổng nợ công tiếp tục tăng và đạt mức
59,6% GDP trong năm 2014, từ mức 54,5%
GDP trong năm 2013. Tuy nợ công vẫn
nằm trong giới hạn, nhưng chi phí trả nợ đã
bắt đầu ăn vào các khoản chi hỗ trợ sản
xuất trong ngân sách.
Tiến bộ trong quá trình tái cơ cấu cũng
không đồng đều, nhất là trong ngành ngân
hàng và doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần
hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước
đã chậm lại trong năm 2015. Kế hoạch cổ
phần hóa (CPH) DNNN đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2011 - 2015
dự kiến là 527 DN. Tuy nhiên, năm 2015 là
năm cuối của kế hoạch CPH kết thúc, nhưng
theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến tháng
11 - 2015, cả nước còn phải thực hiện CPH
130 DN [7]. Hoạt động tái cơ cấu ngân hàng
đã tăng tốc trong nửa đầu năm 2015 nhưng
nợ xấu vẫn là vấn đề lớn. Thiếu nguồn tài
chính, năng lực chuyên môn thấp, không có
khung pháp lý phù hợp vẫn là những yếu tố
cản trở Công ty Quản lý tài sản Việt Nam
(VAMC) giải quyết nợ xấu.
Bên cạnh đó, vấn đề quản trị rủi ro tại
các ngân hàng trong nước còn nhiều bất
cập. Một số ngân hàng có năng lực quản lý
yếu kém, vi phạm các nguyên tắc quản trị
doanh nghiệp và quản trị rủi ro. Chất lượng
tài sản của hệ thống ngân hàng diễn biến
theo chiều hướng tiêu cực. Nhiều ngân
hàng có tỷ lệ vốn thấp, thậm chí có ngân
hàng còn thấp hơn tỷ lệ quy định của Ngân
hàng nhà nước là 9%. Theo ước tính, hệ số
an toàn vốn của toàn hệ thống ngân hàng
chỉ đứng ở mức 8,5%, con số khá thấp so
với các nước trong khu vực như Trung
Quốc (11%), Thái Lan (15,7%), Philipinnes
(15,2%) [8].
3.4. Về mở cửa thị trường mua sắm công
Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường
mua sắm công (hay mua sắm Chính phủ) là
hoàn toàn mới, chỉ đến thời điểm này mới
xuất hiện ở TPP và FTA với Liên minh Châu
Âu (EU). Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế,
các FTA thế hệ mới đều gắn liền với việc mở
cửa thị trường mua sắm công.
Theo TPP, các quy tắc, quy trình trong
quá trình lựa chọn nhà thầu phải ở mức độ
yêu cầu cao về tính công bằng, công khai,
minh bạch. Việt Nam sẽ phải tổ chức lựa
chọn nhà thầu trong khối nước tham gia
TPP (đấu thầu nội khối) hoặc đấu thầu quốc
tế cho phép các nước TPP tham dự thầu.
Chủ đầu tư có nghĩa vụ đối xử với nhà thầu,
hàng hóa Việt Nam và nhà thầu, hàng hóa
của các nước thành viên nội khối TPP một
cách công bằng.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam,
mở cửa thị trường mua sắm công sẽ gây
ra những tác động bất lợi do sự thâm nhập
của các nhà thầu nước ngoài khiến các
nhà thầu nội địa không cạnh tranh nổi;
ngược lại, khả năng tiếp cận và thắng thầu
của các nhà thầu nội địa trên thị trường
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016
8
mua sắm công của các đối tác TPP là hầu
như không có do hạn chế về năng lực
cạnh tranh. Về lâu dài, nếu không chịu đổi
mới, vươn lên, vẫn chờ đợi vào “quan hệ”,
“dựa dẫm” thì khả năng thắng thầu của các
nhà thầu Việt Nam trong thị trường mua
sắm công cũng sẽ bị thu hẹp, dẫn đến ảnh
hưởng tới công ăn việc làm, thị phần của
doanh nghiệp trong nước. Thách thức lớn
nhất hiện nay đó là nhà thầu Việt Nam phải
cạnh tranh sòng phẳng, làm ăn chân chính.
3.5. Về doanh nghiệp
TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng,
không phân biệt quốc gia phát triển hay đang
phát triển, trong khi quy định của WTO và
các hiệp định khác vẫn có chính sách ưu tiên
cho các quốc gia đang phát triển. Như vậy,
rõ ràng đây là bất lợi lớn cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi không có đủ tiềm lực
để cạnh tranh bình đẳng với các doanh
nghiệp Mỹ, New Zealand, hay Australia.
Các nước tham gia TPP cam kết thực thi
các yêu cầu cao về môi trường, lao động,
cạnh tranh... và các ràng buộc mang tính
thủ tục trong các quy định liên quan đến rào
cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ. Các kết quả
đàm phán FTA của Mỹ trong giai đoạn gần
đây cho thấy nước này đặc biệt chú trọng
đến việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi
trường và lao động hay các quy định ràng
buộc về hàng rào kỹ thuật thương mại
(TBT), biện pháp kiểm dịch động thực vật
(SPS)... Điều này đã tạo ra những khó khăn
cũng như làm phát sinh thêm chi phí cho
doanh nghiệp Việt Nam, ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Những ngành hàng xuất khẩu mà
doanh nghiệp Việt Nam thực sự gặp khó
khăn là: thịt bò, thịt lợn, đường, thực phẩm
chế biến, hóa phẩm tiêu dùng và ô tô.
TPP đặt ra yêu cầu cao việc thực thi bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ. Mỹ là đối tác rất
coi trọng những vấn đề liên quan đến bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ cả trong WTO lẫn
trong các FTA của nước này. Tuy nhiên,
đây lại là một vấn đề lớn đối với các doanh
nghiệp Việt Nam vì hiện nay, tuy đã tham
gia Công ước Bern nhưng Việt Nam vẫn
chưa có các thiết chế bảo hộ hiệu quả, số vụ
việc vi phạm sở hữu trí tuệ còn rất lớn.
Để thu lợi tối đa từ TPP, doanh nghiệp
Việt Nam đứng trước thách thức quan trọng
nhất là việc tiến hành tái cơ cấu thành công
DNNN. Trước tiên, những doanh nghiệp
nào vẫn còn dựa vào sự bao cấp của Nhà
nước, có công nghệ sản xuất và kinh doanh
lạc hậu, việc sử dụng vốn và quản trị thiếu
hiệu quả sẽ rơi vào tình trạng khó khăn
(thậm chí phá sản), kéo theo khả năng thất
nghiệp trong một bộ phận lao động. Tuy
nhiên, đây là tác động tiêu cực mang tính
cục bộ, ngắn hạn.
Ngoài ra, nhân lực cũng là vấn đề tạo
khó khăn cho doanh nghiệp. Trong quá
trình thu hút