Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất.
13 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2634 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển triết học Mác -Lênin ở thời đại ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC CHẤT CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
DO C.MÁC THỰC HIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Ở THỜI ĐẠI NGÀY NAY
TRẦN VĂN PHÒNG (*)
Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện
là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết
học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh
giữa triết học và các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách
mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn của nó trong việc phát triển triết
học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với thực tiễn
cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được
thừa nhận là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng
này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới”
sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ
ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã
chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này
được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự
thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương
pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ
nghĩa duy vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học
Hy Lạp cổ đại, có thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự
thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong triết học của Hêraclít. Tuy
nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng
trong triết học của Hêraclít còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy
vật lẫn phương pháp biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ,
chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu,
ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách
rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang
trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát
sinh và tiêu vong"(1).
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển
về chất so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa
duy vật thời kỳ này, về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là
chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời phương pháp biện chứng. Các nhà triết học
cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập phương pháp biện chứng với
phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong
phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen
lại dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện
chứng của Hêghen không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết
hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm. Cho nên, phương pháp biện chứng đó
không thực sự trở thành khoa học, mặc dù nó có đóng góp nhất định cho sự
phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là
chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật
nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn
tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ
với phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu
bằng phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt
trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương
pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất.
Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì
vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực
hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của
cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát
triển của xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy
vật không triệt để. Nghĩa là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự
nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích xã hội, lịch sử, tinh thần. Do
vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ được chủ nghĩa duy
tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của nó là
lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải
thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh
vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ
nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất. Không phải ngẫu nhiên mà
V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết
học hoàn bị”(2). Rằng, “chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ
đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh
và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến
nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(3). Như vậy, với quan
niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch
sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã
hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của
xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như
phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm
ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển
của lịch sử loài người”(4). Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác “chỉ cho ta
thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức
xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời
sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như
thế nào từ chế độ phong kiến”(5). Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử
của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực
hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy
vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho
C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu
được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu
hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt
động thực tiễn của con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở
thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu
vào giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã
từng nhận định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(6). Cũng đã có một số nhà
triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con đường không tưởng -
dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân trí, bằng
con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào
trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới.
Các nhà triết học Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong
kiến lạc hậu, lỗi thời bằng các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu
được rằng, phải thông qua hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng
mới thực hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc - đại biểu lớn nhất của
chủ nghĩa duy vật trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt
động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và
xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”(7).
Không phải ngẫu nhiên mà sau này, C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm
chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa
duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được
nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không
được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”(8).
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan
trọng hơn là cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã
chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói
riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn
về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, không có sự
đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là
hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn
của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với
hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau.
Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản
là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí
tinh thần của mình”(9). Do vậy, triết học Mác đã trở thành công cụ nhận
thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại tiến
bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các
khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau
các khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ
đại, triết học thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo,
đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các
khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học được coi là “bộ môn” của thần
học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Ở thời kỳ Cận đại,
triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới quan của
con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng
thể tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v.. Trong triết
học cổ điển Đức, triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”.
Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng,
tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác
các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự
ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự
nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX
đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong
nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của
phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học
Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn
phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới
quan, phương pháp luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự
nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên
các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá
rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư
tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát
triển có thể có”(10). Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã chấm dứt
mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho
chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách
mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm
vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân
loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi
thay, nhưng triết học Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị
thực tiễn trong thời đại ngày nay. Có thể nói, cuộc cách mạng trong triết
học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn giữ nguyên
ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày
nay. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta phải thấy
rằng, triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống
khép kín; nó đòi hỏi luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với
phương pháp biện chứng duy vật, không có gì là bất biến. Bản thân C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất
khả xâm phạm”, là khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đòi hỏi những người cộng
sản sau này phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của triết
học Mác - Lênin sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết bổ
sung, hoàn thiện, phát triển chúng. Trên tinh thần ấy mà lúc sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan
điểm học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa
Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải
quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng
ta”(11); “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với
bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác -
Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta.
Học để mà làm”(12). Đồng thời, Người cũng yêu cầu lý luận phải thường
xuyên được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh
động”(13). Do vậy, chúng ta phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn mới, trên
cơ sở lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng ta để thường xuyên bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết
học Mác - Lênin. Tinh thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất
phát từ điều kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn thiện, phát triển
triết học Mác - Lênin, nhưng phải biết tổng kết thực tiễn một cách khách
quan, biện chứng, có chắt lọc, có lý luận. Đồng thời, phải tránh siêu hình,
rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiển, chỉ biết căn cứ từ thực tiễn
vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin.
Không chỉ thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng, tránh mắc phải sai lầm của các nhà
triết học trước Mác. Trên tinh thần duy vật biện chứng, để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả, cần tiếp tục tinh thần
duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết tốt những vấn đề của xã hội, của
lịch sử trên tinh thần duy vật và biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào
công nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng
gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính
C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết
học với hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn bó với thực tiễn, bảo
đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động,
biến đổi và phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được
bổ sung, hoàn thiện và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đó. Triết học
Mác - Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. V.I. Lênin và Hồ Chí
Minh là những tấm gương sáng về việc bổ sung, hoàn thiện và phát triển
triết học Mác - Lênin trong những điều kiện mới của thực tiễn. Sự thống
nhất giữa triết học Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời
giải đáp cho những vấn đề của ngày hôm nay từ chính thực tiễn ngày hôm
nay chứ không thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình bổ
sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực
sai lầm: hoặc là không thấy được những đổi thay của thực tiễn, bảo thủ
không muốn bổ sung, hoàn thiện và phát triển những nguyên lý của triết
học Mác - Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của
thực tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác - Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với các khoa
học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ, triết học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận của mình. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “Mỗi
lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa
học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi
hình thức của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng được giải thích theo quan
điểm duy vật chủ nghĩa thì ở đây, cũng mở ra một con đường phát triển
mới”(14). Rõ ràng, mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh vạch
thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức để phát
triển. Cũng vì vậy, sự hợp tác giữa những người nghiên cứu triết học Mác -
Lênin với các nhà khoa học tự nhiên trong điều kiện hiện nay là hết sức cần
thiết. Nếu triết học Mác - Lênin không được bổ sung, hoàn thiện và phát
triển trên cơ sở khái quát những thành tựu mới của các khoa học cụ thể thì
sẽ trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không thể đáp ứng được vai trò
thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể, cũng
như cho quần chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương
nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phương pháp biện chứng duy vật thì trước những phát minh mới
của khoa học, người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ph.Ăngghen đã từng phê phán một
số nhà khoa học tự nhiên khi cho rằng, họ không cần tới tư duy lý luận.
Theo Ph.Ăngghen, những nhà khoa học tự nhiên ấy, trên thực tế, lệ thuộc
rất nhiều vào tư duy lý luận, nhưng thường lại là tư duy sai lầm được rút ra
từ những học thuyết triết học “tồi tệ nhất”. Trong Biện chứng của tự nhiên,
Ph.Ăngghen viết: “Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi
triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không
có tư duy thì họ không thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì
họ cần có những phạm trù lôgíc, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách
không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những
người gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của
những hệ thống triết học đã lỗi thời, hoặc lấy trong những mảnh vụn của
các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường đại học (đó không chỉ là
những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ hổ lốn những ý kiến của
những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là những
trường phái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các loại
mà họ đọc một cách không có hệ thống và không phê phán - cho nên dù
sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học… Những ai phỉ