Dịch vụ tài chính chính thức được hiểu là các dịch vụ được cung cấp bởi
các tổ chức tài chính như tổ chức tín dụng (TCTD), ngân hàng thương mại
(NHTM), tổ chức tài chính vi mô (TCVM), công ty bảo hiểm. Trong xu
hướng kết hợp phân phối dịch vụ tài chính trên nền tảng công nghệ, các
dịch vụ thanh toán và chuyền tiền có thể được cung ứng bởi các công ty
công nghệ tài chính (fintech). Thúc đẩy tiếp cận dịch vụ tài chính chính
thức là nội dung quan trọng trong chiến lược tài chính toàn diện của nhiều
quốc gia bởi tầm quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, giúp quốc gia đạt được cả hai mục đích giảm nghèo và tiếp tục tăng
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thúc đẩy dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 208- Tháng 9. 2019
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Thúc đẩy dịch vụ tài chính chính thức
tại Việt Nam hiện nay
Bùi Thị Mến
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Phạm Thị Vân Huyền
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Lương Minh Hà
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 21/06/2019 Ngày nhận bản sửa: 25/07/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019
Dịch vụ tài chính chính thức được hiểu là các dịch vụ được cung cấp bởi
các tổ chức tài chính như tổ chức tín dụng (TCTD), ngân hàng thương mại
(NHTM), tổ chức tài chính vi mô (TCVM), công ty bảo hiểm... Trong xu
hướng kết hợp phân phối dịch vụ tài chính trên nền tảng công nghệ, các
dịch vụ thanh toán và chuyền tiền có thể được cung ứng bởi các công ty
công nghệ tài chính (fintech). Thúc đẩy tiếp cận dịch vụ tài chính chính
thức là nội dung quan trọng trong chiến lược tài chính toàn diện của nhiều
quốc gia bởi tầm quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, giúp quốc gia đạt được cả hai mục đích giảm nghèo và tiếp tục tăng
Motivating the formal financial services in Vietnam
Abstract: Formal financial services including variety of providers such as commercial banks, credit organizations,
micro financial organizations, insurance companies, etc. The services nowdays are integrated in to technological
infrastructures of which payment services and transfer services are able to supplied by fintech companies. It
has a lot to do with motivating the formal financial services due to the fact that formal financial facilites can
enhance economic development as well as mitigate the poverty. In Vietnam, people in rural areas also have
limitations in financial services accessment meanwhile the country has some advantages to develop financial
inclusion. In this research, we explore the fact of how Vietnamese people use formal financial services and
make an assessment on the circumstances of financial inclusions development in the country. Some insights
and implications also presented at the end of the paper.
Key words: formal financial services, shadow finance, fintech, financial services.
Men Thi Bui, PhD.
Email: menbt@hvnh.edu.vn
Huyen Thi Van Pham, PhD.
Email: huyenptv@hvnh.edu.vn
Ha Minh Luong, MEc.
Email: halm@hvnh.edu.vn
Organization of all: Finance faculty, Banking Academy of Vietnam
Bài viết là một phần của Đề tài nhánh, thuộc Đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp quốc gia “Giải pháp thúc đẩy tài chính
toàn diện tại Việt Nam” mã số KX.01.30/16-20, công bố năm 2019
BÙI THỊ MẾN - PHẠM THỊ VÂN HUYỀN - LƯƠNG MINH HÀ
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73
trưởng. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có những lợi thế nhất định để
thúc đẩy tiếp cận tài chính nhưng người dân tại nhiều vùng miền vẫn thiếu
tiếp cận đối với các dịch vụ tài chính chính thức. Bài viết tìm hiểu thực
trạng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính của người dân Việt Nam,
qua đó đánh giá và đề xuất các kiến nghị nhằm thúc đẩy tiếp cận và sử dụng
dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam.
Từ khóa: Dịch vụ tài chính, dịch vụ tài chính chính thức, tín dụng đen,
fintech
1. Tình hình sử dụng dịch vụ tài chính
chính thức của người dân Việt Nam
Trong báo cáo về tài chính toàn diện công
bố năm 2018, Ngân hàng Thế giới (WB)
nhận định, nhiều người Việt Nam hiện
nay không tham gia hệ thống tài chính
chính thức nhưng trên thực tế đang thực
hiện nhiều giao dịch tài chính. Có khoảng
39% người trưởng thành thực hiện gửi tiền
tiết kiệm bên ngoài hệ thống chính thức,
cất tiền trong tủ, trong két hoặc sử dụng
các hình thức không chính thức khác như
“ngồi phường”, “chơi họ”.
Dựa trên kết quả thống kê này, có tới quá
nửa dân số gửi tiền hoặc nhận tiền gửi
bên ngoài hệ thống chính thức hoặc thanh
toán tiền học phí, tiền điện, nước bằng tiền
mặt, tỷ lệ này cao nhất ở các địa bàn nông
thôn hoặc vùng núi, vùng xâu, vùng xa.
Bảng 1. Tỷ lệ người dân gửi tiết kiệm của Việt Nam với các nước thu nhập trung bình thấp
và trong khu vực năm 2018
Đơn vị: %
Tiêu chí Việt Nam Nước thu nhập
trung bình thấp
Các nước Đông Á và
Thái Bình Dương
Tiết kiệm cho tuổi già 18,0 13,2 23,2
Tự cất trữ tiền 57,4 39,7 53,1
Tiết kiệm tại quỹ tín dụng tư nhân 14,4 13,0 8,6
Tiết kiệm tại tổ chức tài chính 14,5 15,9 30,6
Nguồn: WB (2018), The Little Data Book on Financial Inclusion
Các nguyên nhân chính đối với tiếp cận và
sử dụng dịch vụ gửi tiền vào các tổ chức
tài chính chính thức bao gồm: Địa bàn
quá xa; phát sinh thêm chi phí hoặc quá
đắt; yêu cầu quá nhiều giấy tờ khi mở tài
khoản; không có niềm tin vào hệ thống tài
chính (WB, 2018).
Bảng 2 cho thấy, tỷ lệ người dân sử dụng
tài khoản bình quân của Việt Nam là
30,8%, trong khi tại các nước Đông Á và
Thái Bình Dương tỷ lệ này vượt gần 2,3
lần so với Việt Nam; tại nhóm các nước
thu nhập trung bình thấp là 57,8%, cũng
cao hơn nhiều so với Việt Nam. Nhưng xét
theo chỉ tiêu tỷ lệ tài khoản giao dịch qua
điện thoại thì tại Việt Nam đạt mức cao hơn
khá nhiều: 3,5% so với 1,3% của các nước
Đông Á và Thái Bình Dương, dù thấp hơn
mức 5,3% của các nước thuộc nhóm trung
bình thấp. Việt Nam là quốc gia thuộc
Thúc đẩy dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam hiện nay
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201974
nhóm nước có dân số lớn nhưng tỉ lệ phổ
cập tài chính thấp. Để thấy rõ hơn thực tế
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính
chính thức ở Việt Nam, có thể nhìn nhận
trước hết ở các nhóm dịch vụ tài chính cơ
bản gồm dịch vụ tín dụng và thanh toán.
1.1. Dịch vụ tín dụng
Trên thực tế, các gói tín dụng và thủ
tục cho vay các ngân hàng thương mại
(NHTM) và các tổ chức tín dụng thường
có những tiêu chuẩn nhất định. Như vậy,
nhóm đối tượng dưới chuẩn cấp tín dụng
của ngân hàng khó tiếp cận được và thường
phải tìm đến tín dụng đen. Ngay cả những
người có tiếp cận được thông tin về các gói
tín dụng thì những yêu cầu đối với khoản
vay từ phía ngân hàng, tổ chức tín dụng có
thể khiến họ không thể tiếp cận được khoản
vay mong muốn. Sự phát triển của mạng
lưới chi nhánh, phòng giao dịch của một
số NHTM, các điểm giao dịch của Quỹ tín
dụng, ngân hàng chính sách, tổ chức tài
chính vi mô (TCVM) ở Việt Nam thời gian
qua đã góp phần cải thiện tỷ lệ người dân
vay mượn từ các tổ chức tài chính ở Việt
Nam đạt mức tương đương các nước Đông
Nam Á và Thái Bình Dương.
Thống kê ở Bảng 3 cho thấy, trong các
hình thức vay mượn, tỷ lệ người dân đi
vay từ tổ chức tài chính vẫn thấp hơn so
với các hình thức như vay từ gia đình, bạn
bè hoặc các phương thức vay khác. Điều
này khá tương đồng với nhóm nước thu
nhập trung bình thấp hoặc các nước Đông
Á và Thái Bình Dương. Vấn đề đặt ra là
trong khi dịch vụ tín dụng do các tổ chức
tài chính chính thức cung cấp lại ít được
Bảng 2. Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên sử dụng tài khoản của Việt Nam so với các nước
năm 2018
Đơn vị: %
Tiêu chí Việt Nam Nước thu nhập trung bình thấp
Các nước Đông Á và
Thái Bình Dương
Khu vực nông thôn 25,2 57,6 68,8
Ngoài lực lượng lao động 19,8 50,8 59,8
40% nghèo nhất 20,3 50,7 59,3
Phụ nữ 30,4 0,53 67,9
Tài khoản giao dịch qua điện thoại 3,5 5,3 1,3
Tài khoản tổ chức tài chính 0,3 56,1 70,3
Tỷ lệ sử dụng tài khoản bình quân 30,8 57,8 70,6
Nguồn: WB (2018), The Little Data Book on Financial Inclusion
Bảng 3. Tỷ lệ người dân vay mượn của Việt Nam và các nước năm 2018
Đơn vị: %
Tiêu chí Việt Nam Nước thu nhập trung bình thấp
Các nước Đông Á và Thái
Bình Dương
Từ gia đình hoặc bạn bè 29,5 30,4 29,6
Từ tổ chức tài chính 21,7 9,8 21,5
Vay khác 49,0 42,9 46,8
Nguồn: WB (2018), The Little Data Book on Financial Inclusion
BÙI THỊ MẾN - PHẠM THỊ VÂN HUYỀN - LƯƠNG MINH HÀ
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75
sử dụng hơn so với các phương thức khác?
Các nguyên nhân được chỉ ra cũng tương
tự như trường hợp người dân gửi tiết kiệm,
cụ thể là: khoảng cách địa lý; điều kiện và
quy trình vay vốn (WB, 2018).
Trước hết, về khoảng cách địa lý
Khoảng cách giữa những người dùng và
các nhà cung cấp làm gia tăng chi phí đối
với dịch vụ đó, dễ thấy nhất là chi phí đi
lại. Trong hoạt động tín dụng, khoảng
cách quá lớn giữa chi nhánh ngân hàng,
điểm giao dịch của các tổ chức cho vay
quá lớn so với nơi ở hoặc trụ sở của khách
hàng là rào cản tiếp cận dịch vụ cho vay
(WorldBank A.N., 2013). Các ngân hàng
càng ở xa khách hàng của mình thì càng
khiến cho sự không hài lòng của khách
hàng tăng lên.
Hai là, điều kiện và quy trình vay vốn
Tại Việt Nam, quy trình cho vay của các
tổ chức tín dụng (TCTD) được cải thiện
đáng kể, khách hàng có thể tiếp cận một
số sản phẩm vay, thậm chí là tức thì. Tuy
nhiên, những ràng buộc để đảm bảo giảm
thiểu rủi ro khiến cho ngân hàng, tổ chức
tài chính phải thắt chặt các điều kiện vay.
Trong khi đó, các đối tượng cho vay theo
hình thức tín dụng đen đã biết tận dụng lợi
thế cho vay nhanh, không cần thẩm định,
thủ tục đơn giản để đánh vào tâm lý của
đại bộ phân dân chúng. Với tín dụng đen,
người vay không phải chờ đợi lâu, các tờ
rơi, quảng cáo, số điện thoại của người
cho vay dán, treo khắp nơi, từ gốc cây cổ
thụ trên đường đến từng con hẻm trong
phố; ở các vùng nông thôn, người dân sẽ
nhìn thấy các quảng cáo rao vặt ngay trên
bức tường rào hay cổng nhà của họ. Còn
nếu dùng di động hoặc các thiết bị kết nối
mạng thì thông tin còn dễ dàng gấp bội.
Dễ tiếp cận, dễ sử dụng và đạt được số
tiền vay như kỳ vọng là điều giúp cho tín
dụng đen có mức độ phủ sóng rộng khắp.
Tín dụng đen tựa như các cơn bão lớn
nhỏ, nó càn quét từ thành phố lớn, các khu
công nghiệp, khu chế xuất cho đến các
vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa.
Số liệu ước tính trong vòng 4 năm từ
2013- 2017 được công bố tại Hội nghị trực
tuyến triển khai chính sách tín dụng phục
vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, hạn
chế tín dụng đen của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) cho thấy, cả nước có
khoảng 7.624 vụ phạm tội liên quan đến
tín dụng đen, trong đó 56 vụ giết người,
398 vụ cố ý gây thương tích, 629 vụ cướp
tài sản, 1.809 vụ lừa đảo. Tính riêng trong
năm 2018, cả nước chứng kiến tới 84 vụ
giết người, 855 vụ cố tình gây thương tích,
105 vụ cướp tài sản và trên 1.309 vụ lừa
đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến tín
dụng đen (Tuổi trẻ, 2018). Nhìn chung,
khuyến khích và cải thiện các điều kiện để
người dân tiếp cận được với những khoản
vay do các tổ chức tài chính chính thức
cung cấp đang trở nên vô cùng cần thiết.
1.2. Dịch vụ thanh toán
Các giao dịch thanh toán chính thức được
cung ứng bởi các NHTM hoặc các công
ty được NHNN cấp phép cung ứng dịch
vụ trung gian thanh toán. Tính đến tháng
02/2019, trên trang web chính thức của
NHNN cho thấy, bên cạnh các ngân hàng,
có 29 đơn vị được cấp phép cung cấp dịch
vụ trung gian thanh toán gồm: Napas,
Vnpay, M_Service, Bankpay, Viet Union;
Vietnam Esports; Ecpay; Zion; Vnpt Epay;
Viet Phu Payment; Baokim E-Commerce;
Vimo Technoloty; Vtc; Moca; Fpt Wallet;
M-Pay; Onepay; Wepay; Nganluong;
1pay; VNPT- Media; People Care; Viettel;
Thúc đẩy dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam hiện nay
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201976
Vinatti; Vimass; Smart Net; Edenred;
Paytech. Trong số các tổ chức trung gian
thanh toán phi ngân hàng tại Việt Nam
này, một số doanh nghiệp có sự hợp tác
với các tập đoàn nước ngoài, thậm chí
vốn nước ngoài chiếm trên 50% (NHNN,
2018). Các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia vào thị trường trung gian thanh toán
ở Việt Nam giúp thúc đẩy thị trường này
phát triển, các đơn vị này tựa như cánh
tay nối dài của hệ thống ngân hàng để tiếp
cận và cung cấp các dịch vụ thanh toán
mới cho khách hàng. Sự phát triển của hệ
thống thanh toán không dùng tiền mặt là
tất yếu, nhằm đáp ứng nhu cầu của dân cư
và doanh nghiệp. Mặc dù vậy, người dân
vẫn chưa thay đổi thói quen dùng tiền mặt
và còn e ngại khi tiếp cận với công nghệ
thanh toán mới. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng
thanh toán vẫn tập trung ở khu vực đô thị
và chưa vươn tới một cách đồng đều tại
các khu vực nông thôn. Người dân đi chợ
truyền thống hoặc chi trả các sinh hoạt phí
thường ngày vẫn ưa dùng tiền mặt.
So sánh các phương thức thanh toán
không dùng tiền mặt, tỷ lệ dân chúng sử
dụng các hình thức thanh toán kỹ thuật
số đạt ở mức cao hơn các phương thức
khác. Dù vậy, tỷ lệ này vẫn thấp hơn mức
trung bình của các quốc gia thuộc nhóm
thu nhập trung bình thấp. Ở các thành phố
lớn của Việt Nam, nơi hạ tầng thanh toán
được cải thiện hơn so với địa bàn khác
thì cũng vẫn còn đó một số nhu cầu thanh
toán không dùng tiền mặt của người dân
không được đáp ứng đầy đủ. Bằng chứng
là, ngay tại nhiều quận, huyện của Hà
Nội, các phụ huynh có con học tại một
số trường tiểu học công lập, trung học cơ
sở công lập mong muốn được thanh toán
học phí cho con cái họ qua các phương
thức không dùng tiền mặt là không thể
do nhà trường vẫn thu tiền mặt. Ngược
lại, có khá nhiều dịch vụ đã triển khai các
hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
như thanh toán điện, nước, thanh toán
phí internet, truyền hình cáp, thuê bao di
động, nộp thuế thì ở đó vẫn còn một
bộ phận người dân (kể cả người có điện
thoại thông minh) ra đại lý thanh toán tiền
mặt trực tiếp, mua thẻ cào, cào trực tiếp
chứ không nhờ đến dịch vụ thanh toán
của ngân hàng hay các công ty fintech với
vai trò là đơn vị được cấp phép trung gian
thanh toán. Thống kê của WB vào tháng
7/2018, Việt Nam là quốc gia có lượng
giao dịch phi tiền mặt thấp nhất trong khu
vực khi chỉ đạt 4,9%, trong khi tỷ lệ này
ở Trung Quốc là 26,1%, còn Thái Lan là
59,7%. Tổng Cục Thuế Việt Nam công bố
số liệu hàng năm về việc nộp thuế điện tử
đã chỉ ra rằng, dù nộp thuế điện tử được
triển khai từ năm 2014 với 95% doanh
nghiệp đã đăng ký, số thuế thực tế được
thu từ phương thức này tăng từ 55% lên
70% tiền nộp vào Ngân sách (Tiền Phong,
2019). Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn
có tâm lý thích nộp trực tiếp hơn là qua tài
khoản và tới ngày cuối cùng của thời hạn
nộp thuế mới đi nộp.
Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 01/01/2019
của Chính phủ nhằm tạo sự chuyển biến về
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh và năng suất lao động. Một trong
những nội dung của Nghị quyết này là việc
đẩy nhanh thanh toán không dùng tiền mặt,
yêu cầu không dùng tiền mặt thanh toán
tiền điện, nước, học phí ở đô thị trước tháng
12/2019, cho thấy những quyết tâm của Nhà
nước Việt Nam trong việc giảm dần tiền mặt
trong thanh toán của người dân.
2. Đánh giá chung về thực trạng các
dịch vụ tài chính chính thức ở Việt Nam
Qua nghiên cứu thực tế tình hình cung cấp
BÙI THỊ MẾN - PHẠM THỊ VÂN HUYỀN - LƯƠNG MINH HÀ
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 77
và sử dụng của dân chúng đối với dịch vụ
tài chính chính thức ở Việt Nam cho thấy
các vấn đề nổi cộm bao gồm:
- Chính sách đối với nhà cung cấp được
ban hành theo chủ thể (đối với TCTD, đối
với tổ chức TCVM, đối với các công ty
fintech...) chưa tính đến tính chất tương
đồng hoặc mức độ rủi ro của từng nhóm
dịch vụ tài chính. Chẳng hạn, đối tượng
và phương thức cho vay của ngân hàng và
công ty tài chính khác nhau nên mức độ
rủi ro của khoản vay cũng rất khác nhau.
Các công ty tài chính hướng đến nhóm đối
tượng dưới chuẩn cấp tín dụng của ngân
hàng. Đồng thời, cung cấp các khoản vay
nhỏ, không tài sản bảo đảm, thủ tục lại
đơn giản, nhanh chóng, Hoạt động này
đi kèm với rủi ro lớn, chi phí đầu vào và
chi phí phục vụ cao. Tuy nhiên, các quy
định pháp lý nhằm hạn chế các rủi ro này
cũng chưa đầy đủ mà tập trung chủ yếu
trong nhóm quy định về thanh toán đối với
các tổ chức tài chính phi ngân hàng được
NHNN cấp phép trung gian thanh toán.
- Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát
triển nhưng mật độ cao chủ yếu ở khu vực
trung tâm.
- Cơ sở hạ tầng thanh toán phát triển
nhưng không đồng đều giữa thành thị và
nông thôn. Số lượng nhà cung cấp gia tăng
với sản phẩm thanh toán phong phú dựa
trên nền tảng công nghệ là chủ yếu.
- Tỷ lệ người trưởng thành ở Việt Nam có
tài khoản giao dịch không nhiều, đây là
rào cản lớn nhất trong tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ tài chính.
3. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy dịch
vụ tài chính chính thức cho người dân
Việt Nam
Để người dân Việt Nam có thể được
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính
chính thức cần có thời gian, tùy vào từng
thời điểm để áp dụng các biện pháp cụ
thể. Trong những năm tiếp theo, các chủ
trương, chính sách mới về lĩnh vực tài
chính, đặc biệt là đề xuất ban hành và
thực hiện Khung chiến lược quốc gia về
tài chính toàn diện sẽ là nền tảng pháp
lý quan trọng để triển khai mục tiêu tiếp
cận tài chính đến tất cả các nhóm dân cư
và doanh nghiệp, trong đó có đối tượng
nghèo, doanh nghiệp siêu nhỏ.
3.1. Thúc đẩy người dân
Thứ nhất, khuyến khích người dân mở tài
khoản giao dịch. Để đảm bảo mỗi người
dân, ít nhất là những người trưởng thành
có thể tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài
chính chính thức là thúc đẩy họ mở tài
khoản giao dịch. Việc mỗi cá nhân sở hữu
tài khoản giao dịch đóng vai trò hết sức
quan trọng, bởi nó cho phép họ có thể gửi
và nhận tiền, cũng như mở ra cơ hội cho
việc sử dụng các dịch vụ tài chính khác.
Nhờ vào tỷ lệ sở hữu điện thoại di động
của người dân Việt Nam ở mức cao so với
khu vực và chủ yếu là điện thoại thông
minh là điều kiện giúp người dân tiến gần
hơn đến các giao dịch qua tài khoản.
Thứ hai, thúc đẩy người dân sử dụng dịch
vụ phù hợp với nhu cầu và điều kiện của họ
thông qua cải thiện nhận thức của dân chúng
dựa trên đặc thù của từng nhóm dân cư.
Đối với người dân ở khu vực thành thị:
Khu vực thành thị là nơi tập trung nhiều
người có thu nhập cao, ổn định, trình độ
dân trí cao, dễ tiếp cận các loại hình dịch
vụ tài chính, nhờ đó người dân có thể lựa
chọn các sản phẩm phù hợp. Thế nhưng,
quá nhiều sản phẩm cũng khiến người
Thúc đẩy dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam hiện nay
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201978
sử dụng gặp khó khăn khi ra quyết định.
Chiến lược về phát triển các sản phẩm kỹ
thuật số và ứng dụng di động tỏ ra có độ
tương thích cao với đặc trưng của khách
hàng tiếp nhận dịch vụ ở khu vực thành
thị. Ở khu vực thành thị, tỷ lệ sử dụng các
Hình 1. Cơ chế thúc đẩy dịch vụ tài chính chính thức
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
BÙI THỊ MẾN - PHẠM THỊ VÂN HUYỀN - LƯƠNG MINH HÀ
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 79
thiết bị thông minh và mạng di động để
tiếp cận các dịch vụ tài chính cao hơn khu
vực nông thôn (WB, 2017). Bởi những đối
tượng này có trình độ am hiểu kỹ thuật,
ngoại ngữ, có thu nhập trung bình cao
hơn. Sự phát triển của mạng xã hội cũng
góp phần lan tỏa ảnh hưởng của dịch vụ
ngân hàng số tới một lượng lớn hơn khách
hàng ở khu vực thành thị. Do vậy, giải
pháp cung ứng đa dạng và đầy đủ các loại
hình sản phẩm và dịch vụ, đi kèm các ứng
dụng, tiện ích từ công nghệ số cần được
đặc biệt quan tâm ở khu vực thành thị.
Đối với người dân sống ở các khu vực
khác: Khoảng cách địa lý quá xa, chi phí
mở tài khoản cao so với thu nhập, giấy tờ
thủ tục khó hoàn thiện và vì giáo dục tài
chính chưa bao trùm nên dẫn tới sự thiếu
tin tưởng vào các nhà cung cấp sản phẩm,
dịch vụ (Klapper, L., Lusardi, A., và Van
Oudheusden, P., 2015). Khách hàng có
xu hướng thích giao dịch ở những ngân
hàng gần nhà hoặc nằm trong tuyến đường
di chuyển hàng ngày của họ. Do vậy, đi
lại khó khăn và xa điểm giao dịch ở nông
thôn gây không ít trở ngại cho khách hàng
vốn dĩ đã yếu về kỹ thuật, năng lực tài
chính. Khách hàng ở khu vực này cũng có
thể dễ tin tưởng vào các dịch vụ môi giới
hoặc bị kẻ xấu lợi dụng, dẫn tới mất tiền,
ti