Dinh dưỡng trẻnhỏvô cùng quan trọng trong việc giúp trẻcó thểphát triển
được hết tiềm năng của cơthể. Nhiều nghiên cứu đã xác định hai năm đầu đời của trẻ
là hai năm cơhội, là "cửa sổquan trọng" đểtrẻphát triển tối đa vềthểchất và hành vi.
Đây cũng là giai đoạn cao điểm của hiện tượng chậm tăng trưởng, thiếu các vi chất
dinh dưỡng và các bệnh nhiễm khuẩn. Chậm tăng trưởng vềcân nặng tập trung vào
giai đoạn 3 đến 12 tháng tuổi trong khi chậm tăng trưởng vềchiều cao thường rõ ở18
tháng và kéo dài đến 40 tháng tuổi (1). Theo theo dõi của hệthống giám sát của Viện
Dinh dưỡng từ1994 đến 2004 ởViệt Nam cho thấy sau 6 tháng tuổi tỷlệsuy dinh
dưỡng tăng nhanh chóng và đạt cao nhất vào khoảng 13 đến 24 tháng tuổi (tỷlệnhẹ
cân 30.6% năm 2004 so với tỷlệsuy dinh dưỡng chung của trẻdưới 5 tuổi là 26.6%)
(2). Tỷlệthiếu Vitamin A tiền lâm sàng và thiếu máu cao (đến 60%) thường do thiếu
tích lũy từthời kỳbào thai kết hợp với chế độ ăn nghèo nàn (3).
Nguyên nhân của tỷlệsuy dinh dưỡng cao ởnhóm tuổi này có liên quan đến cả
hành vi và nguồn lực. Việc nuôi con bằng sữa mẹvà ăn bổsung chưa hợp lý, kết hợp
với tỷlệmắc bệnh nhiễm khuẩn cao là những nguyên nhân trực tiếp. Đói nghèo ởhộ
gia đình, điều kiện vệsinh và chăm sóc sức khỏe là các nguyên nhân tiềm tàng (1, 4).
Nhằm tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng cao ởnhóm
tuổi ăn bổsung (6 đến 23 tháng), nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã được tiến
hành, các công trình tổng quan và tổng kết đã được thực hiện. Các chỉtiêu quan tâm
thường có liên quan đến lượng giá nguồn lực (sựsẵn có và khảnăng tiếp cận lương
thực thực phẩm, điều kiện vệsinh, đói nghèo.) và hành vi (kiến thức, thái độvà thực
hành chăm sóc trẻ).
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực hành ăn bổ sung và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ 6-23 tháng tại 3 xã nông thôn huyện Cẩm Khê - Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
VIỆN DINH DƯỠNG
KHOA DINH DƯỠNG ỨNG DỤNG VÀ GIÁM SÁT DINH DƯỠNG
*************
BÁO CÁO ĐỀ TÀI
THỰC HÀNH ĂN BỔ SUNG VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG
Ở TRẺ 6-23 THÁNG TẠI 3 XÃ NÔNG THÔN
HUYỆN CẨM KHÊ - PHÚ THỌ
Chủ nhiệm đề tài: TS. TỪ NGỮ
6486
27/8/2007
Hà nội, 2007
2
T×m hiÓu vÒ thùc hµnh ¨n bæ sung vµ c¸c yÕu tè ¶nh h−ëng
®Õn t×nh tr¹ng suy dinh d−ìng ë trÎ 6 - 23 th¸ng t¹i 3 x∙
n«ng th«n phó thä
Từ Ngữ, Huỳnh Nam Phương, Hoàng Thu Nga – Khoa DDƯD và GSDD
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng trẻ nhỏ vô cùng quan trọng trong việc giúp trẻ có thể phát triển
được hết tiềm năng của cơ thể. Nhiều nghiên cứu đã xác định hai năm đầu đời của trẻ
là hai năm cơ hội, là "cửa sổ quan trọng" để trẻ phát triển tối đa về thể chất và hành vi.
Đây cũng là giai đoạn cao điểm của hiện tượng chậm tăng trưởng, thiếu các vi chất
dinh dưỡng và các bệnh nhiễm khuẩn. Chậm tăng trưởng về cân nặng tập trung vào
giai đoạn 3 đến 12 tháng tuổi trong khi chậm tăng trưởng về chiều cao thường rõ ở 18
tháng và kéo dài đến 40 tháng tuổi (1). Theo theo dõi của hệ thống giám sát của Viện
Dinh dưỡng từ 1994 đến 2004 ở Việt Nam cho thấy sau 6 tháng tuổi tỷ lệ suy dinh
dưỡng tăng nhanh chóng và đạt cao nhất vào khoảng 13 đến 24 tháng tuổi (tỷ lệ nhẹ
cân 30.6% năm 2004 so với tỷ lệ suy dinh dưỡng chung của trẻ dưới 5 tuổi là 26.6%)
(2). Tỷ lệ thiếu Vitamin A tiền lâm sàng và thiếu máu cao (đến 60%) thường do thiếu
tích lũy từ thời kỳ bào thai kết hợp với chế độ ăn nghèo nàn (3).
Nguyên nhân của tỷ lệ suy dinh dưỡng cao ở nhóm tuổi này có liên quan đến cả
hành vi và nguồn lực. Việc nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung chưa hợp lý, kết hợp
với tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn cao là những nguyên nhân trực tiếp. Đói nghèo ở hộ
gia đình, điều kiện vệ sinh và chăm sóc sức khỏe là các nguyên nhân tiềm tàng (1, 4).
Nhằm tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng cao ở nhóm
tuổi ăn bổ sung (6 đến 23 tháng), nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã được tiến
hành, các công trình tổng quan và tổng kết đã được thực hiện. Các chỉ tiêu quan tâm
thường có liên quan đến lượng giá nguồn lực (sự sẵn có và khả năng tiếp cận lương
thực thực phẩm, điều kiện vệ sinh, đói nghèo...) và hành vi (kiến thức, thái độ và thực
hành chăm sóc trẻ).
Điểm lại các nghiên cứu trên thể giới về chế độ ăn uống ở trẻ em, hầu hết tập
trung vào tìm hiểu các yếu tố liên quan đến thực hành ăn bổ sung ở trẻ nhỏ (thời điểm,
năng lượng tiêu thụ, các yếu tố ảnh hưởng đến cung cấp, phân bổ và đưa khẩu phần
đến cho trẻ). Tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ thay đổi theo khu vực, quốc gia và theo thời
gian. Ở Đông Nam Á, tỷ lệ này cao đến 73- 94%. Ở nông thôn nhìn chung cao hơn
thành thị (5). Tại Indonesia, 85% trẻ được bú sữa non, 75-85% trẻ được bú kéo dài đến
3
18 tháng nhưng chỉ 27-42% trẻ dưới 2 tháng được bú mẹ hoàn toàn (6). Theo một tổng
kết của WHO năm 1996 thì tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu biến
thiên từ 19% ở châu Phi đến 49% ở Đông Nam Á .Thời gian cai sữa của trẻ cũng biến
thiên từ 9 tháng ở châu Mỹ La tinh đến trung bình 25 tháng ở Đông Nam Á (7). Về
khẩu phần ăn bổ sung, nghiên cứu ở nông thôn Bangladesh cho thấy năng lượng tiêu
thụ của trẻ 6-8 tháng và 9-12 tháng chỉ chiếm 88% và 86% nhu cầu năng lượng
khuyến nghị (kJ/ngày), nhưng nếu tính nhu cầu theo cân nặng cơ thể thì đạt được 106
và 105%. Sữa mẹ đóng góp 78% và 75% năng lượng được tiêu thụ ở trẻ 6-8 tháng và
9-12 tháng (8). Cũng theo nghiên cứu tại Bangladesh, số lượng bữa ăn và đậm độ năng
lượng tuân theo các khuyến nghị của WHO cho các độ tuổi nhưng lượng thực phẩm
cho mỗi bữa thường ít và chỉ có 72% được trẻ ăn hết. Tổng năng lượng tiêu thụ liên
quan đồng biến đến tần suất ăn, chất lượng từng bữa ăn và năng lượng tiêu thụ từ sữa
mẹ. Bên cạnh việc có khả năng cung cấp những thực phẩm ăn bổ sung đáp ứng đủ nhu
cầu của trẻ, hành vi của người chăm sóc đóng vai trò quan trọng trong việc trẻ có nhận
được đầy đủ thực phẩm ấy hay không. Ngoài những yếu tố về kinh tế xã hội chung có
khả năng ảnh hưởng đến hành vi người chăm sóc (ví dụ: nghèo đói), thì một số yếu tố
trực tiếp đã được nghiên cứu và tổng kết là trình độ văn hóa, kiến thức, niềm tin,
những cản trở về thời gian và công việc, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng, tâm lý,
khả năng kiểm soát/ quyền lực và sự phân chia nguồn lực trong gia đình, sự ủng hộ và
hỗ trợ từ cộng đồng và gia đình của người chăm sóc (5).
Theo tổng kết của Lutter (1), có 3 nhóm yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến kết
quả của thực hành ăn bổ sung ở trẻ nhỏ độc lập và có tác động lẫn nhau: đó là đặc
điểm của khẩu phần, hành vi của người chăm sóc và khẩu vị của trẻ - trong đó 2 nhóm
đầu đã có nhiều nghiên cứu còn khẩu vị của trẻ thì do đặc tính của yếu tố này nên chưa
thấy có nghiên cứu nào đề cập đến. Khẩu vị này phụ thuộc vào tình trạng sinh lý, sức
khỏe và dinh dưỡng của từng cá thể.
Tổng quan các nghiên cứu trong nước thì thấy thực hành về nuôi con bằng sữa
mẹ là khá tốt, ít nhất là trong giai đoạn trẻ mới chào đời. Cụ thế có 75.2% bà mẹ cho
trẻ bú sớm, 82% bà mẹ cho trẻ bú sữa non, chỉ có 7% cai sữa khi trẻ dưới 12 tháng
tuổi. Tuy nhiên việc duy trì nguồn sữa mẹ cần lưu ý khi tỷ lệ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn
đến hết tháng thứ 4 và thứ 6 tương ứng chỉ có 18.9% và 12.4%. Thực tế đó đồng nghĩa
với việc bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung sớm, nhiều nhất là từ tháng thứ 4 (33.6%), từ 4 đến
6 tháng tuổi chiếm 74.3%. Chất lượng bữa ăn bổ sung còn kém với bột gạo là thức ăn
chính (69.4%). Các thực phẩm giàu chất dinh dưỡng chỉ được coi là cho thêm vào bột
4
(như thức ăn động vật và rau) với tỷ lệ 22.3% bà mẹ có thực hành như vậy. Tần suất
ăn của trẻ tương đối thấp (trung bình 3 bữa/ngày) (2).
Số liệu thống kê trên được thu thập từ hệ thống giám sát của toàn quốc. Trên
các địa bàn cụ thể, các chỉ tiêu tuy có biến thiên nhưng vẫn mô tả một khuynh hướng
chung của việc thực hành ăn bổ sung còn chưa hợp lý về cả thời điểm, số lượng và
chất lượng mặc dù đã có cải thiện so với trước như tỷ lệ bú mẹ cao hơn, thực hành bú
sớm và bú sữa non tốt, thời điểm ăn bổ sung cũng muộn hơn (3, 9, 10, 11, 12, 13, 14) .
Những cải thiện đó là do kết quả của công tác phòng chống suy dinh dưỡng được triển
khai trên toàn quốc, cụ thể tác động vào nâng cao kiến thức của người dân trong chăm
sóc trẻ. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì nâng cao kiến thức không đồng nghĩa là
thay đổi được hành vi. Những hành vi thay đổi được là do sự tập trung đầu tư của các
can thiệp và đơn giản là những hành vi dễ thực hiện trên cộng đồng thì dễ có thể cải
thiện hơn.
Tổng kết lại các nghiên cứu có liên quan đến chế độ ăn của trẻ nhỏ, hầu hết là
nghiên cứu rộng hơn về tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan (nguy cơ) trong
đó có chế độ ăn (bú mẹ, ăn bổ sung) mà ít có nghiên cứu tập trung phân tích thực hành
về chế độ ăn này có sự khác biệt giữa nhóm trẻ suy dinh dưỡng và trẻ bình thường,
cũng như chưa tìm hiểu sâu về những cản trở khiến cho người chăm sóc trẻ chưa thực
hành được đúng những kiến thức mà họ đã có (chưa thay đổi được hành vi mặc dù
nhận thức đã được cải thiện). Đồng thời, chủ yếu các nghiên cứu sử dụng phương pháp
định lượng dựa trên bộ câu hỏi, trong khi một số yếu tố liên quan đến hành vi chăm
sóc và những cản trở có tính xã hội cần được tìm hiểu sâu và đó là ưu thế của phương
pháp định tính thì dường như ít được sử dụng.
Nhằm bổ sung vào những thiếu sót như đã nêu trên, đồng thời góp phần mang
lại những bằng chứng thuyết phục về thực hành ăn bổ sung để trên cơ sở đó xây dựng
những chính sách và can thiệp phù hợp, đáp ứng yêu cầu của Kế hoạch hành động về
nuôi dưỡng trẻ nhỏ giai đoạn 2006-2010 của Việt Nam vừa được Bộ Y tế phê duyệt
(hưởng ứng Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng trẻ nhỏ - Global Strategy for Infant
and Young Child Feeding (15) của Tổ chức Y tế thế giới), một nghiên cứu định lượng
kết hợp với định tính đã được tiến hành để tìm hiểu thực hành ăn bổ sung ở trẻ nhỏ và
các yếu tố liên quan, tập trung vào những cản trở sâu sắc mang tính hành vi và xã hội
ảnh hưởng đến thực hành đó.
5
II. MỤC TIÊU CỦA NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung:
Nghiên cứu về tình hình ăn bổ sung ở trẻ em để đưa ra các khuyến nghị phù hợp.
Mục tiêu cụ thể:
• Đánh giá thực trạng về khẩu phần ăn của trẻ em 6 đến 23 tháng tuổi
• Tìm hiểu thực hành dinh dưỡng ở trẻ em 6 đến 23 tháng tuổi.
• Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành ăn bổ sung
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
• Thiết kế nghiên cứu: điều tra cắt ngang mô tả kết hợp với hồi cứu trên quần thể
trẻ em 6-23 tháng
• Địa điểm: 3 xã thuộc huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ
• Chọn mẫu:
• Cỡ mẫu:
Dựa vào công thức chọn mẫu mô tả để ước lượng trung bình khẩu phần
của trẻ 6 – 23 tháng (độ chính xác 95%, x là giá trị trung bình của khẩu
phần = 800 Kcal và độ lệch chuẩn s = 250 Kcal từ các nghiên cứu
trước)
Z2 1-α/2 . s2 (1,96)2 x 250 2
N =
(0,05. x )2
=
(0,05 x 800) 2
Từ đó tính ra cỡ mẫu cần thiết là 150 trẻ.
Trên thực tế, lấy toàn bộ số trẻ từ 6 – 23 tháng tuổi ở 3 xã để cân đo
nhân trắc (170 trẻ) và hỏi ghi 150 bà mẹ.
• Phương pháp thu thập số liệu:
• Đối tượng: trẻ 6 đến 23 tháng tuổi
• Người cung cấp thông tin: mẹ hoặc người chăm sóc trực tiếp.
6
• Định lượng: Phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi 150 mẫu (phỏng vấn trực
tiếp một một với mẹ hoặc người chăm sóc; người thực hiện là cán bộ
nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng đã được tập huấn về phương pháp
điều tra), kết hợp với cân đo tình trạng dinh dưỡng của trẻ (dụng cụ và
kỹ thuật của Viện Dinh dưỡng)
• Định tính: các đối tượng sẽ được chia nhóm để thảo luận có định hướng
theo chủ đề có sẵn (mở rộng hợp lý), tổng cộng có 2 nhóm – Một nhóm
bà mẹ có con bị suy dinh dưỡng và một nhóm bà mẹ có con không bị
suy dinh dưỡng. Mục đích nhằm tìm hiểu sâu và giải thích một số vấn
đề sau khi phân tích sơ bộ kết quả điều tra bộ câu hỏi, so sánh giữa hai
nhóm.
• Phân tích số liệu:
• Định lượng: kết quả nhân trắc và bộ câu hỏi (sau khi được làm sạch)
được nhập máy tính theo chương trình EPI-INFO và sử lý trên EPI-
INFO và SPSS. Các test thống kê sẽ được thực hiện để tìm sự liên quan
giữa các biến và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của
trẻ.
• Định tính: Nội dung của thảo luận nhóm có trọng tâm được ghi băng và
gỡ băng thành văn bản. Phân tích tay, mã hóa theo chủ đề đã xây dựng.
Minh họa và làm rõ những kết quả định lượng.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Mẫu nghiên cứu
Lớp tuổi Nhân trắc Phỏng vấn
0-5 tháng 34
6-11 tháng 63 46
12-23 tháng 107 104
Tổng số 204 150
7
Toàn bộ trẻ em từ 0 đến 23 tháng tuổi tại 3 xã điều tra được thu thập số liệu
nhân trắc, cụ thể là 93 trẻ trai và 111 trẻ gái. Có 150 trẻ từ 6 đến 23 tháng tuổi được
chọn để phỏng vấn mẹ hoặc người chăm sóc chính, trong đó có 75 trẻ trai và 75 trẻ
gái.
2. Tình trạng dinh dưỡng
TỶ LỆ SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM
0 0
7.9
9.5
0
27.1
24.4
20.6
2.4
8.6
3.7
33.9
0
5
10
15
20
25
30
35
40
W/A H/A W/H
0-5 th¸ng
6-11th¸ng
12-23 th¸ng
Chung
Hình 1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em 0 đến 23 tháng tuổi
Suy dinh dưỡng trẻ em từ 0 đến 23 tháng: tỷ lệ nhẹ cân 24,4%; tỷ lệ thấp còi
20,6% và gày còm là 2,4%.
Đánh giá nhân trắc của toàn bộ trẻ em từ 0 đến 23 tháng tuổi tại 3 xã điều tra, ta
thấy tỷ lệ SDD cân nặng theo tuổi bằng 0% trong những tháng đầu đời của trẻ (0 đến 5
tháng) nhưng tăng vọt lên 7, 6% vào lớp tuổi 6 đến 11 tháng, rồi tăng đến 4 lần ở lớp
tuổi 12 đến 23 tháng. Sự gia tăng của tỷ lệ suy dinh dưỡng này xảy ra đồng thời với
những thay đổi về chế độ ăn của trẻ (từ bú mẹ hoàn toàn, sang ăn bổ sung và cai sữa,
ăn chế độ ăn như người lớn) và sự xuất hiện thường xuyên của các bệnh nhiếm khuẩn
(có tới 12,5% số trẻ được điều tra bị ỉa chảy trong tuần qua, tỷ lệ này là 46,7% với biểu
hiện có ho sốt – và có đến 84,2% trẻ ốm thì đều ăn ít hơn so với bình thường)
Xem xét các số liệu về chỉ số chiều dài nằm theo tuổi, suy dinh dưỡng thể còi
cọc đã thấy xuất hiện từ lớp tuổi 0 đến 5 tháng tuổi với tỷ lệ 8.6% (thời kỳ này chưa
thấy xuất hiện suy dinh dưỡng thể nhẹ cân), rất dễ có thể suy luận đây là những trường
hợp suy dinh dưỡng từ thời kỳ bào thai, vì vậy muốn cải thiện tình trạng dinh dưỡng
trẻ em (lấy chỉ tiêu H/A) cần có những biện pháp can thiệp dinh dưỡng sớm thông qua
chăm sóc nữ vị thành niên và thai sản. Số liệu này cũng gợi ý rằng theo dõi tỷ lệ sơ
sinh nhẹ cân (lấy chỉ số là cân nặng của trẻ) vẫn chưa đủ để đánh giá toàn diện kết quả
8
của thai nghén và dự đoán tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong tương lai, chiều dài của
trẻ khi sinh có thể là chỉ số chính xác hơn. Suy dinh dưỡng thể còi cọc này duy trì ở
mức 9,5% ở lớp tuổi 6 đến 11 tháng và tăng lên đến 27,1% ở lớp tuổi 12 đến 23 tháng.
Bảng 2. So sánh kết quả điều tra với số liệu của hệ thống giám sát VDD 2005
Lớp tuổi Cân nặng theo tuổi
(%)
Chiều cao theo tuổi
(%)
Cân nặng theo
chiều cao (%)
Điều tra Giám sát Điều tra Giám sát Điều tra Giám sát
PT TQ PT TQ PT TQ
0 – 5 tháng 0 4,4 4,6 8,6 6,0 6,3 0 3,7 2,9
6 – 11 tháng 7,9 23,2 25,9 9,5 35,4 32,7 0 11,4 6,9
12 – 23 tháng 33,9 31,8 31,2 27,1 37,7 37,1 3,7 11,5 10,1
Theo bảng 2, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở vùng điều tra thấp hơn so với số liệu giám
sát toàn quốc và của tỉnh Phú Thọ năm 2005 (16), khác biệt nhiều nhất ở lứa tuổi 6 –
11 tháng nhưng ở nhóm 12 – 23 tháng thì đã tương đương. Như vậy, đối với khu vực
điều tra, trẻ dưới 12 tháng đã được chăm sóc dinh dưỡng và quan tâm tương đối tốt,
cần chú ý hơn đến trẻ ở nhóm 12 – 23 tháng, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này và có các can thiệp phù hợp.
3. Thực hành ăn của trẻ nhỏ
Thực hành bú mẹ
Tất cả số trẻ được hỏi đều đã từng hoặc đang được nuôi bằng sữa mẹ. Xét về
mặt số lượng, đây là một thực hành tốt theo truyền thống ở nông thôn. Nhưng khi đi
sâu nghiên cứu chất lượng nuôi con bằng sữa mẹ thì số tháng trung bình trẻ được bú
mẹ hoàn toàn là 2,94 (± 1,52), chỉ có 33,6% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng
đầu, tỷ lệ này là 16,4% trong 5 tháng đầu và chỉ có 4,6% là trong 6 tháng đầu theo
khuyến nghị mới của WHO. So sánh với số liệu từ hệ thống Giám sát của Viện dinh
dưỡng năm 2005 (16), tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu của toàn quốc chỉ đạt
18,9% nhưng đến 6 tháng thì duy trì được 12,2%, như vậy nếu lấy điểm ngưỡng theo
khuyến nghị cũ thì địa bàn điều tra có khá hơn toàn quốc nhưng không duy trì được bú
mẹ hoàn toàn đến 6 tháng như các địa phương khác.
9
Trong số trẻ điều tra, có 36,8% là trẻ từ 17 đến 23 tháng tuổi, tỷ lệ này tương
ứng với tỷ lệ trẻ đã thôi bú mẹ nói chung trong toàn bộ trẻ 6 đến 23 tháng là 36,2%.
Nhưng chỉ có 7,2% là trẻ 23 tháng tuổi, như vậy trẻ thường được cai trước 2 năm tuổi.
Mặc dù bú mẹ là thực hành truyền thống nhưng kỹ thuật cho bú đúng vẫn
không phải bà mẹ nào cũng biết. Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ mô tả thường cho
con bú cả hai bên để cho cân và sữa về đều (chứ không phải bú hết một bên rồi
chuyển), do đó trẻ thường không được bú sữa cuối là thứ sữa giàu chất béo và giúp trẻ
tăng cân.
Các bà mẹ có xu hướng cho con cai sữa vào khoảng 18 tháng tuổi để tập cho trẻ
ăn cơm, khi đó ông bà có thể thay thể mẹ trong việc cho trẻ ăn để mẹ bắt đầu đi làm
xa. Đây cũng là thời điểm phổ biến xuất hiện dấu hiệu lười ăn của trẻ nên theo các bà
mẹ “phải cai sữa thì nó mới chịu ăn” và “nếu mẹ cứ ở nhà thì con dính lấy mẹ, chỉ bú
chứ không ăn. Mẹ đi làm vắng thì nó ở nhà mới ăn”.
Thực hành ăn bổ sung
Đến tháng thứ 4, đã có 73,3% trẻ được cho ăn bổ sung, và đến 6 tháng tuổi thì
hầu hết trẻ đã ăn bổ sung (98,7%). Trên thực tế, đa số các bà mẹ đều cho rằng thời
điểm cho ăn bổ sung như vậy theo họ là sớm (73,3%), chỉ có 24,3% cho là đúng thời
gian và 2% cho là muộn. Phân tích kỹ hơn thì những bà mẹ cho rằng trẻ đã ăn bổ sung
sớm thì thời điểm trung bình là 3,25 tháng; đúng thời gian khi độ tuổi trung bình là
5,05 tháng và muộn là 6 tháng; tính chung thì trung bình, trẻ bắt đầu ăn bổ sung khi
được 3,75 tháng tuổi (±1,4) và các bà mẹ có nhận biết tương đối đúng về thời điểm ăn
bổ sung, chỉ là họ không thực hiện được.
Sở dĩ các bà mẹ quyết định thời điểm cho ăn bổ sung của trẻ như vậy là do một
số lý do sau: mẹ phải đi làm (63,1%), trẻ khóc/đói/mẹ không đủ sữa (63,8%), đúng
thời điểm (19,5%) và một số ít là theo lời khuyên của họ hàng/hàng xóm (2,6%).
Trong số 95 bà mẹ phải đi làm sớm nên phải cho trẻ ăn bổ sung sớm thì có 29% phải
cho trẻ ăn từ tháng thứ 2 và 78% phải cho trẻ ăn trước 4 tháng. Thực tế ở nông thôn bà
mẹ phải trở lại công việc đồng áng sớm sau khi sinh là một trở ngại chính khiến trẻ
không được bú mẹ hoàn toàn trong 4 (6) tháng đầu. Việc cho bú bị gián đoạn do công
việc của mẹ làm cho trẻ bị cắt nguồn cung thực phẩm, khiến trẻ đói và khóc, đồng thời
việc sản xuất sữa của mẹ theo cơ chế sinh lý cũng bị giảm sút. Tất cả những yếu tố đó
khiến người mẹ phải quyết định cho trẻ ăn bổ sung dù biết đó chưa phải thời điểm
đúng. Các bà mẹ nói rằng “Nghe nói nên ăn bổ sung vào tháng thứ 6 nhưng em cho
10
cháu ăn từ tháng thứ 4 là được rồi. Bọn em nhà quê phải đi làm, con ở nhà nó đói thì
ông bà quấy bột cho nó ăn no thì nó ngoan”.
Bảng 3. Dạng thức ăn của trẻ trong lứa tuổi điều tra
Dạng thức ăn N Tỷ lệ % Tuổi TB (tháng)
TB SD
Bú mẹ 2 1,3 -
Bột 34 22,4 9,73 2,61
Nước cháo 1 0,7 8,84 -
Cháo gạo 49 32,2 12,16 3,46
Cơm nát 25 16,4 18,55 4,25
Cơm 41 27,0 20,20 3,22
Theo sự phân bố của độ tuổi, độ tuổi ăn bột của trẻ trung bình là 9,73 tháng và
độ tuổi trung bình của trẻ ăn cháo từ 12 tháng. Cần lưu ý trong cách chế biến của hai
loại thức ăn bổ sung này để có hình thức tuyên truyền giáo dục về thực hành ăn bổ
sung cho phù hợp. Từ thảo luận nhóm kết hợp quan sát ở địa phương, nhóm nghiên
cứu thấy rằng khi trẻ ăn bột, mẹ thường chuẩn bị riêng từng nồi bột trước khi ăn cho
trẻ, thường xuyên cho thêm rau (nhưng nhiều bà mẹ vẫn chỉ lọc lấy nước rau chứ
không cho ăn cái), và có thể đổi món trong ngày (thực phẩm giàu đạm). Còn khi trẻ đã
chuyển sang ăn cháo, bà mẹ thường hầm một nồi cháo và cho trẻ ăn cả ngày, việc cho
các thực phẩm khác vào cháo (như thực phẩm giàu đạm, mỡ và rau) không được chăm
chút bằng khi nấu bột riêng cho từng bữa. Điều đó vừa phản ánh một chế độ ăn truyền
thống, nhưng nó cũng phản ánh công tác giáo dục dinh dưỡng thông qua trình diễn
thực hành ăn bổ sung từ trước đến nay quá chú trọng vào nấu bột cho trẻ mà quên rằng
giai đoạn ăn bột của trẻ không phải kéo dài hết 24 tháng mà trên thực tế ở nông thôn,
trẻ nhanh chóng được chuyển sang chế độ ăn cháo rồi ăn cơm. Vì vậy, thực hành chế
biến thức ăn cho trẻ nhỏ dưới những dạng khác như cháo và cơm cần được giáo dục
cho cộng đồng để mặc dù trẻ phải ăn sớm những dạng thức ăn này thì chúng cũng
được chế biến phù hợp để đảm bảo đủ chất dinh dưỡng và trẻ tiêu hóa được.
Trong số 152 trẻ của 3 xã từ 6 đến 23 tháng tuổi, đã có 66 trẻ ăn cơm (43,4%)
và được gia đình cho ăn bắt đầu trung bình từ tháng thứ 14 (± 4,1). Độ tuổi bắt đầu ăn
cơm của trẻ là quá sớm, khi răng và hệ tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh để thích
11
nghi với một chế độ ăn của người lớn, điều đó ảnh hưởng đến mức tiêu thụ lương thực
thực phẩm của trẻ và do đó, ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, đó là chưa
kể đến khả năng thực phẩm không phù hợp có khả năng gây rối loạn tiêu hóa và hấp
thu cho trẻ.
Khẩu phần thực tế
Bảng 4. Mức tiêu thụ LTTP bình quân (g/trẻ/ngày)
TT Tên nhóm LTTP Trẻ 6 đến 11 tháng
(n=46)
Trẻ 12 – 23 tháng
(n=104)
TB ± SD TB ± SD
1 Gạo 56,14 25,54 72,67 41,38
2 Lương thực khác 2,88 10,53
3 Đậu đỗ 0,97 3,84 0,67 2,69
4 Đậu phụ 0,72 5,16
5 Vừng lạc 0,46 1,86
6 Dầu mỡ 2,21 3,64 1,05 2,38
7 Thịt các loại 19,66 35,31 25,78 37,04
8 Cá các loại 2,28 8,05 11,44 25,23
9 Tôm cua, hải sản 3,47 16,18 0,52 2,58
10 Trứng, sữa 418,69 1