Bài viết khẳ quyền (quyền con người) là nhiệm vụ chính trị tất ng định nhân
yếu của nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời phân tích một số
khó khăn trong giai đoạn hiện
nay. Qua đó kiến nghị những
giải pháp nhằm thực hiện tốt
vấn đề đảm bảo và thúc đẩy
quyền con người ở Việt Nam.
Từ khóa: quyền con
người
5 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hiện quyền con người những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ40
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Bài viết khẳng định nhân quyền (quyền con người) là nhiệm vụ chính trị tất
yếu của nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời phân tích một số
khó khăn trong giai đoạn hiện
nay. Qua đó kiến nghị những
giải pháp nhằm thực hiện tốt
vấn đề đảm bảo và thúc đẩy
quyền con người ở Việt Nam.
Từ khóa: quyền con
người
1. Thực hiện quyền con
người là nhiệm vụ chính trị
tất yếu
Theo định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy Liên Hợp quốc,
quyền con người là “những
đảm bảo pháp lý toàn cầu có
tác dụng bảo vệ các cá nhân
và nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự
được phép và tự do cơ bản của
con người”.
Đối với hầu hết các quốc
gia trên thế giới, quyền con
người (nhân quyền) luôn luôn
là mối quan tâm hàng đầu.
Những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay
TRỊNH THỊ THU HIỀN
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
Bởi lẽ Nhà nước, suy cho cùng
luôn luôn mang bản chất xã
hội để thực hiện chức năng
quản lý xã hội - trong đó con
người là trung tâm. Nhân
quyền được xem là vấn đề
mang tính chất toàn cầu, buộc
các quốc gia phải đánh giá và
xem xét một cách nghiêm túc.
Thực hiện quyền con
người là bảo đảm sự tôn trọng
các cam kết quốc tế
Cùng với Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người năm
1948 (UDHR), Công ước về
quyền dân sự, chính trị năm
1966 (ICCPR) và Công ước về
các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa năm 1966 (ICESCR). Từ đó
cho đến nay, Liên Hợp Quốc
cùng các quốc gia thành viên
luôn nỗ lực trong xây dựng và
bảo đảm hơn nữa các vấn đề
về nhân quyền.
Việt Nam là thành viên
của tổ chức Liên Hợp Quốc, đã
phê chuẩn và gia nhập nhiều
điều ước quốc tế về nhân
quyền như: Công ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử chủng tộc 1965 (gia
nhập ngày 9/6/1981); Công
ước về ngăn ngừa và trừng trị
tội diệt chủng năm 1948 (gia
nhập ngày 9/6/1981); Công
ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ
nữ năm 1979 (phê chuẩn ngày
18/12/1982); Công ước về cấm
và hành động ngay để xóa bỏ
các hình thức lao động trẻ
em tồi tệ nhất năm 1999 (phê
chuẩn ngày 19/12/2000)...
Việc ký kết và gia nhập
các Điều ước quốc tế về quyền
con người đặt ra cho Việt Nam
nghĩa vụ tất yếu trong vấn
đề tận tâm thực hiện, rà soát,
hoàn thiện hệ thống pháp luật
để thúc đẩy và bảo vệ quyền
con người.
Để cụ thể hóa nội dung
các Điều ước quốc tế, Đảng
đã đưa ra nhiều chủ trương,
đường lối và chính sách nhằm
đảm bảo nhân quyền. Chẳng
hạn như Chỉ thị 12/CT-TW
ngày 12/7/1992 của Bộ Chính
trị về “Vấn đề quyền con người
và quan điểm chủ trương của
Đảng ta”; “Cương lĩnh xây
Thực hiện quyền con người
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 41
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội” (bổ sung và phát triển
năm 2011)... Trên tinh thần
đó, Nhà nước ban hành các
đạo luật có ý nghĩa quan trọng
trong vấn đề nhân quyền như:
Hiến pháp 2013; Bộ luật Dân
sự 2015; Bộ luật hình sự 2015;
Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015...
Thực hiện quyền con
người là tất yếu trong điều
kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
Điều 2 Hiến pháp 2013
khẳng định:
1. Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
Như vậy, có thể hiểu việc
xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam luôn gắn liền với việc xây
dựng nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân; mọi quyền
lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Ở đó, Nhà nước tôn trọng,
thực hiện và bảo vệ quyền con
người, tất cả vì hạnh phúc của
con người. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam sẽ không thể được xác
lập hoàn toàn nếu thiếu vắng
việc thực hành các quyền tự
do và dân chủ rộng rãi của mọi
người dân1.
Dân chủ và nhân quyền
có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nếu vi phạm dân chủ
thì nhân quyền không bảo
đảm và ngược lại. Đồng thời,
dân chủ và nhân quyền đều là
phương tiện và động lực của
sự phát triển xã hội, cũng là
động lực cuối cùng của chủ
nghĩa xã hội (ở đây ta hiểu dân
chủ đi đôi với kỷ cương, tức là
dân chủ phải dựa vào nguyên
tắc tập trung).
2. Vấn đề đặt ra
Giá trị thực tiễn của Hiến
pháp 2013 là lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến của Việt
Nam, quyền con người được
coi là quyền tự nhiên, vốn có
mà Nhà nước phải ghi nhận
và đảm bảo thực hiện2. So với
các bản Hiến pháp trước có sự
kế thừa, phát triển, đồng thời
nhất quán những nội dung,
tinh thần điều ước quốc tế
về quyền con người mà Việt
Nam là thành viên. Toàn bộ
tinh thần của Hiến pháp 2013
là Hiến pháp của con người,
vì con người, phục vụ con
người. Cách tiếp cận mới về
quyền con người rất mạnh mẽ
và hiện đại. Hiến pháp 2013
khẳng định quyền con người
là quyền đương nhiên và chỉ
có thể bị hạn chế bởi 4 lý do:
an ninh quốc phòng, trật tự an
toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe
cộng đồng. Tất cả các vấn đề
liên quan đến con người đều
phải được điều chỉnh bằng
luật chứ không dừng ở pháp
lệnh. Nhiều luật quan trọng
thể chế hóa quyền con người.
Thủ tục hành chính, đặc biệt
liên quan giữa cơ quan hành
chính nhà nước với người
dân và doanh nghiệp có bước
chuyển biến rõ rệt theo hướng
công khai, minh bạch, tạo điều
kiện cho người dân và doanh
nghiệp như: cơ chế một cửa,
một cửa liên thông, cải cách
thủ tục thuế, hải quan, công
chứng, chứng thực...
Tuy nhiên, vấn đề thực
hiện nhân quyền ở Việt Nam
đang gặp phải một số thách
thức sau:
Một là, cơ chế về bảo vệ
và thúc đẩy thực hiện quyền
con người còn thiếu và chưa
đồng bộ3.
Cơ chế quốc gia đảm bảo
nhân quyền là việc các quốc
gia phải có các biện pháp
bao gồm cả lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Điều này đòi
hỏi các quốc gia phải không
ngừng xây dựng và hoàn thiện
hệ thống luật pháp, cải cách tư
pháp và cải cách hành chính
nhằm tôn trọng và đảm bảo
tốt quyền con người. Với sự nỗ
lực không ngừng trong thời
gian qua, vấn đề nhân quyền
ở Việt Nam đã có bước phát
triển đáng kể. Song, các cơ chế
bảo đảm quyền con người vẫn
chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ.
Cụ thể:
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ42
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G Hệ thống pháp luật đảm
bảo nhân quyền còn nhiều bất
cập.
Với nguyên tắc chung
“cán bộ công chức chỉ được
làm những gì pháp luật cho
phép - công dân được phép
làm những gì pháp luật không
cấm”, thì dường như quyền
con người dù ai thực hiện đi
chăng nữa cùng cần phải có
pháp luật để làm thước đo
chuẩn mực chung. Mặc dù,
pháp luật chúng ta ngày càng
được hoàn thiện và đầy đủ
nhưng các hiện tượng phổ
biến như: luật chờ nghị định,
hoặc chồng chéo, trùng lắp là
điều vẫn thường xảy ra.
Ví dụ: lần đầu tiên trong
Hiến pháp 2013 ghi nhận
quyền chuyển đổi giới tính
cho cá nhân (là một quyền con
người), sau đó được ghi nhận
tại Bộ luật Dân sự 2015, song
để cá nhân thực hiện được
quyền này vẫn chưa đủ cơ
sở và thủ tục pháp lý vì thiếu
luật chuyển đổi giới tính (hiện
nay vẫn đang ở giai đoạn lấy
ý kiến góp ý dự thảo). Luật Hộ
tịch 2014 chính thức có hiệu
lực 01/01/2016 và đưa vào sử
dụng nhưng nhiều nội dung
đảm bảo quyền con người nói
chung, quyền công dân nói
riêng cũng chưa có quy định
rõ ràng. Chẳng hạn về quyền
và nghĩa vụ pháp lý về hộ tịch
sau khi thực hiện chuyển đổi
giới tính nếu công dân thực
hiện vẫn chưa có quy định
cụ thể.
Hoạt động tuyên truyền
và phổ biến giáo dục pháp luật
chưa phát huy tối đa hiệu quả
nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu
bảo đảm nhân quyền.
Đây là một trong những
nội dung trọng tâm của công
tác cải cách tư pháp được nêu
ra tại Nghị quyết số 49/NQ-TW
về cải cách tư pháp. Tuy nhiên,
thực tế hoạt động phổ biến
giáo dục pháp luật hiện nay
vẫn còn nhiều nơi mang tính
hình thức, chưa đi vào trọng
tâm. Một số hình thức tuyên
truyền mang tính lỗi thời,
không đi kịp với xu thế chung
của thời đại vừa kém hiệu
quả, vừa tiêu hao ngân sách
nhà nước (ví dụ: tuyên truyền
pháp luật thông qua tủ sách
pháp luật ở xã, phường, thị
trấn; hoặc tuyên truyền thông
qua hệ thống loa truyền thanh
đang tỏ ra nhiều hạn chế và
bất cập)...
Cải cách hành chính chưa
đáp ứng với tình hình mới.
Những năm qua, công
tác cải cách hành chính luôn
được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, đạt được nhiều
thành tựu quan trọng như:
bộ máy của hệ thống chính
trị đã giảm đáng kể tình trạng
cồng kềnh, quá tải; nhiều văn
bản luật được ban hành nhằm
thực hiện tốt quyền con người;
nhiều thủ tục hành chính được
thay đổi theo hướng tích cực,
giảm thiểu thời gian cho người
dân... Tuy nhiên:
“Tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị vẫn còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều
đầu mối; hiệu lực, hiệu quả
hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức
bộ máy, mối quan hệ của một
số cơ quan, tổ chức chưa thật
rõ, còn chồng chéo, trùng lắp...
Việc phân công, phân cấp,
phân quyền giữa các ngành,
các cấp và trong từng cơ quan,
tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ
và đồng bộ; còn tình trạng bao
biện, làm thay hoặc bỏ sót
nhiệm vụ”.4 Thực tế là chúng
ta chưa có một cơ quan nhân
quyền quốc gia riêng biệt nào,
mà Hiến pháp 2013 chỉ trao
trách nhiệm thực thi các vấn
đề về nhân quyền cho các cơ
quan nhà nước (Quốc hội, Tòa
án, Viện kiểm sát). Bên cạnh
đó, các tổ chức chính trị xã hội,
các cơ quan khoa học tham
gia bảo vệ và thúc đẩy nhân
quyền.
Chưa xây dựng được cơ
cấu cán bộ, công chức trong cơ
quan hành chính và chưa thực
hiện tốt việc đào tạo trước khi
bổ nhiệm. Mặt khác, “nhiều
cán bộ, đảng viên, trong đó có
người đứng đầu chưa thể hiện
tính tiên phong, gương mẫu;
còn biểu hiện quan liêu, cửa
quyền, chưa thực sự sâu sát
thực tế, cơ sở. Công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật đảng
chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái”5. Để người
dân thực hiện được quyền của
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 43
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18mình, cần có sự “giúp đỡ” từ
phía các cán bộ, công chức -
những người được nhà nước
trao quyền trong việc thực thi
công vụ. Tuy nhiên, tình trạng
suy thoái về phẩm chất đạo
đức chính trị của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên
đã và đang trở thành rào cản
lớn và cực kỳ nguy hiểm dẫn
đến vi phạm quyền con người.
Thủ tục hành chính vẫn
còn nhiều hạn chế dẫn đến vi
phạm nhân quyền. Chẳng hạn,
nhiều cơ quan, đơn vị chủ trì
soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật chưa thực hiện hoặc
thực hiện còn hình thức việc
lấy ý kiến đánh giá tác động
đối với các văn bản. Việc tiếp
nhận, xử lý phản ánh, kiến
nghị của công dân vẫn chưa
đáp ứng được kỳ vọng của
người dân...
Hai là, đấu tranh chống
lại các hoạt động chống phá
nhà nước do lợi dụng vấn đề
nhân quyền, dân chủ ngày
càng diễn ra phức tạp.
Đây là một trong những
mũi nhọn tấn công thường
xuyên của các thế lực thù
địch nhằm thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình” đối
với Việt Nam. Để thực hiện
âm mưu đó, các đối tượng lợi
dụng vấn đề tự do tôn giáo,
tín ngưỡng để chỉ trích, phê
phán các chính sách, pháp
luật của Nhà nước Việt Nam.
Thậm chí, chúng trắng trợn
xuyên tạc rằng “Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo của Việt
Nam là tạo ra cở sở pháp lý để
đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”
hay “Tội phá hoại chính sách
đoàn kết” trong Bộ luật Hình
sự được thiết kế nhằm đàn áp
người dân tộc thiểu số...
Lợi dụng vấn đề về tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo,
các nhóm, hội được lập ra
ngày càng nhiều với những tư
tưởng xuyên tác hay còn gọi
là tà đạo đã và đang trở thành
thách thức lớn trong công tác
đấu tranh của Việt Nam. Ví dụ:
Thời gian gần đây tà đạo Hội
Thánh Đức Chúa Trời Mẹ đã
xuất hiện ở nhiều nơi, gieo rắc
nhiều nguy cơ tiềm ẩn về việc
phủ nhận các giá trị văn hóa,
đạo đức của dân tộc Việt Nam,
đồng thời làm ảnh hưởng đến
sức khỏe cũng như thiệt hại
về vật chất của những người
được coi là hội viên. Các học
thuyết “Xã hội dân sự”, “Xã hội
công giáo” được tuyên truyền
công khai, trắng trợn gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tư
tưởng của người dân.
Không chỉ ở trong nước,
đối với quốc tế, Việt Nam trở
thành “mối quan tâm đặc biệt”
của một số tổ chức như “Theo
dõi nhân quyền”, “Ân xá quốc
tế” hay “Các nhà báo không
biên giới”... Các tổ chức này
luôn tiến hành các cuộc họp
báo, hội thảo và đưa ra các
thông điệp thể hiện Việt Nam
không tôn trọng nhân quyền
và tiến hành gây sức ép với
nước ta. Trong tình hình này,
vấn đề kiểm soát thông tin
đang đặt ra nhiều thách thức
cần có sự can thiệp nghiêm
túc của nhà nước. Cuộc cách
mạng 4.0 diễn ra hứa hẹn
nhiều cơ hội cho sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước
nói chung, bảo đảm quyền
con người nói riêng, song, việc
kiểm soát thông tin sao cho
không vi phạm nhân quyền
cũng là một áp lực lớn đối với
mỗi quốc gia trong đó có Việt
Nam6.
3. Giải pháp
Thứ nhất, tăng cường
công tác tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật.
Đối tượng của hoạt động
tuyên truyền không chỉ là
công dân mà cả trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Chỉ khi
người thực thi công vụ nắm rõ
những nghĩa vụ và quyền hạn
của mình thì họ mới đảm bảo
trở thành “người giúp sức” cho
công dân của mình thực hiện
quyền con người.
Nội dung tuyên truyền
là các văn bản pháp luật, chủ
trương đường lối chính sách
của Đảng để quần chúng nhân
dân hiểu trên tinh thần: hiểu
đúng - hiểu đầy đủ - hiểu chính
xác. Nhất quán quan điểm
nhân quyền gắn liền với dân
chủ, nhưng dân chủ phải đảm
bảo yếu tố tập trung, nhân
quyền gắn với tự do nhưng
sự tự do phải trong khuôn khổ
pháp luật, không lợi dụng tự
do để xuyên tạc, bóp méo sự
lãnh đạo của Đảng.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ44
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G Thứ hai, tiếp tục thực
hiện tốt chiến lược cải cách
tư pháp, cải cách hành chính
nhà nước. Trong đó tập trung
vào vấn đề nâng cao hiệu quả
của công tác xây dựng và ban
hành văn bản quy phạm pháp
luật - là một bước đệm quan
trọng tạo hành lang pháp lý
cho việc đảm bảo quyền con
người. Thực hiện nhất quán
đường lối, chủ trương, tinh
thần Nghị quyết số 18/NQ-TW
“Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”. Trong đó, chú trọng đến
việc chuyên môn hóa cơ quan
thực hiện nhân quyền.
Trong tình hình hiện nay,
việc thành lập mới một cơ
quan nhân quyền quốc gia sẽ
là bất hợp lý so với tinh thần
Nghị quyết số 18/NQ-TW: “Kiên
quyết giảm và không thành lập
mới các tổ chức trung gian; giải
thể hoặc sắp xếp lại các tổ chức
hoạt động không hiệu quả.
Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy
không được tăng thêm đầu mối
và biên chế; trường hợp đặc biệt
cần tăng thêm đầu mối từ cấp
vụ, cục hoặc tương đương trở
lên phải có ý kiến của Bộ Chính
trị”. Mặc dù vậy, cần khẳng
định mục tiêu của việc thành
lập cơ quan nhân quyền quốc
gia là nhằm bảo đảm tốt hơn
quyền con người. Vì vậy, nên
thực hiện chuyên môn hóa cơ
quan thực hiện nhân quyền
theo hướng cơ quan này có
nhiệm vụ chủ yếu là: phát
hiện những vấn đề về nhân
quyền; kiến nghị xây dựng các
kế hoạch, chương trình nhằm
bảo đảm nhân quyền; đề xuất
việc tham gia các điều ước về
nhân quyền hay chủ động tiến
hành hợp tác quốc tế các vấn
đề về nhân quyền.
Thứ ba, nâng cao năng
lực, trình độ, rèn luyện phẩm
chất chính trị của đội ngũ cán
bộ công chức theo tinh thần
Nghị quyết TW 4 Khóa XII.
Chỉ khi người thực thi
công vụ toàn tâm, toàn ý thực
hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung
thì khi đó nhân quyền mới có
“cơ sở” và “động lực” để đảm
bảo. Bởi lẽ, nếu trong hoạt
động công vụ vẫn còn sự ích
kỷ, chủ nghĩa cá nhân, tham
ô, hối lộ... thì chắc chắn nhân
quyền mới chỉ dừng lại ở việc
“thực hiện” chứ chưa có “đảm
bảo”. Mặt khác, quyền con
người có được “thỏa mãn” hay
không phụ thuộc rất lớn đến
hiệu quả của hoạt động thực
thi công vụ, nói cách khác là
sự phụ thuộc vào năng lực của
cán bộ công chức. Điều này
đòi hỏi, đội ngũ cán bộ công
chức phải thường xuyên rèn
luyện, trau dồi kiến thức, kỹ
năng nhằm đáp ứng nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Thứ tư, thực hiện tốt chế
độ kiểm soát thông tin nhằm
hạn chế tối đa việc lợi dụng
nhân quyền nhằm đấu tranh
chống lại âm mưu “diễn biến
hòa bình”.
Quyền con người là thành
quả phát triển lâu dài của lịch
sử xã hội loài người, là một
trong những giá trị tinh thần
quý báu, cao cả nhất của nên
văn minh nhân loại thời nay.
Con người là nhân tố quan
trọng nhất, nhưng những
thách thức đối với việc tôn
trọng và thực hiện quyền con
người ở mỗi quốc gia đã và
đang đòi hỏi phải có sự thành
lập, đổi mới và hoàn thiện các
cơ chế nhằm thúc đẩy và bảo
vệ quyền con người trên cả
bình diện quốc gia và khu vực
quốc tế. Thực hiện tốt vấn đề
nêu trên chính là cách thức và
động lực đảm bảo thực hiện
quyền con người ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay./.
——————
1. PGS, TS Nguyễn Tất Giáp; PGS, TS
Đặng Dũng Chí; PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa,
“Đảm bảo quyền con người trong điều kiện
đẩy mạnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr,26.
2. PGS, TS Nguyễn Tất Giáp; PGS, TS
Đặng Dũng Chí; PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa,
sđd, 2016, tr.542.
3. Tất cả các quốc gia trên thế giới
thực hiện việc đảm bảo nhân quyền thông
qua hai cơ chế: quốc tế và quốc gia. Trong
phạm vi nội dung này, tác giả chỉ đề cập tới
cơ chế quốc gia.
4. Nghị quyết số 18/NQ-TW “Một số
vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả”.
5. Nghị quyết TW 4 khóa XII
6. Nghị quyết TW4 Khóa XII nhận
định:“Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù
hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin,
mạng xã hội phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý
thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ mạnh
để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai
lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch , phản động, phần tử
cơ hội và bất mãn chính trị”