Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An

Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm xã hội. Hành vi này không chỉ trực tiếp xâm phạm an toàn trật tự công cộng mà còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý người phạm tội, gián tiếp khuyến khích người khác phạm tội, phạm tội nhiều lần. Trong khi nghiên cứu các nội dung cơ bản của loại tội phạm này, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ít được nghiên cứu đầy đủ và cụ thể, chưa thật chú ý tới bản chất của nó. Vì thế, việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm còn hạn chế chưa bám sát với thực tiễn xảy ra. Điều đó, ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm gia tăng tình hình tội phạm này, cũng như đề ra các biện pháp phòng ngừa đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Mặt khác, các sách báo, tài liệu còn chưa thật quan tâm tới tội phạm này hoặc có quan tâm nghiên cứu nhưng rất ít. Trong khi đó, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại đang diễn ra hằng ngày, vừa bí mật, vừa công khai có thể rất đơn giản hoặc vô cùng tinh vi, phức tạp dưới mọi hình thức nhằm hợp pháp hoá tài sản có được do thực hiện các hành vi phạm pháp để đưa ra thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, tính chất nguy hiểm của tội phạm này thể hiện ở việc nó có liên quan mật thiết tới tội phạm “rửa tiền” (loại tội phạm mà hiện nay người ta đã phải lên tiếng “báo động đỏ” về những con số tiền bị tẩy rửa khổng lồ trên thế giới). Vì vậy, việc nghiên cứu tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trở nên cấp thiết để đáp ứng với sự phát triển ngày càng gia tăng của loại tội phạm này cũng như phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.

doc72 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm xã hội. Hành vi này không chỉ trực tiếp xâm phạm an toàn trật tự công cộng mà còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý người phạm tội, gián tiếp khuyến khích người khác phạm tội, phạm tội nhiều lần. Trong khi nghiên cứu các nội dung cơ bản của loại tội phạm này, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ít được nghiên cứu đầy đủ và cụ thể, chưa thật chú ý tới bản chất của nó. Vì thế, việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm còn hạn chế chưa bám sát với thực tiễn xảy ra. Điều đó, ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm gia tăng tình hình tội phạm này, cũng như đề ra các biện pháp phòng ngừa đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Mặt khác, các sách báo, tài liệu còn chưa thật quan tâm tới tội phạm này hoặc có quan tâm nghiên cứu nhưng rất ít. Trong khi đó, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại đang diễn ra hằng ngày, vừa bí mật, vừa công khai có thể rất đơn giản hoặc vô cùng tinh vi, phức tạp dưới mọi hình thức nhằm hợp pháp hoá tài sản có được do thực hiện các hành vi phạm pháp để đưa ra thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, tính chất nguy hiểm của tội phạm này thể hiện ở việc nó có liên quan mật thiết tới tội phạm “rửa tiền” (loại tội phạm mà hiện nay người ta đã phải lên tiếng “báo động đỏ” về những con số tiền bị tẩy rửa khổng lồ trên thế giới). Vì vậy, việc nghiên cứu tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trở nên cấp thiết để đáp ứng với sự phát triển ngày càng gia tăng của loại tội phạm này cũng như phù hợp hơn với pháp luật quốc tế. Với tính chất nguy hiểm của nó như vậy, song các cơ quan tố tụng lại gặp những vướng mắc trong cách hiểu và vận dụng điều luật khi xét xử do còn thiếu văn bản hướng dẫn thi hành điều luật. Đây là một kẽ hở, để bọn tội phạm này lợi dụng thực hiện tội phạm trốn tránh sự truy tố của pháp luật. Vì vậy, để đáp ứng với yêu cầu mới của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, cũng như cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng, việc nghiên cứu loại tội phạm này là điều cần thiết và hết sức cấp bách hiện nay. Và đó cũng là lý do để tôi chọn đề tài “Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Mục đích của đề tài Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, giúp cho việc nghiên cứu điều luật này được sâu hơn, từ đó rút ra được nguyên nhân và điều kiện của tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra dự báo diễn biến của tình hình tội phạm này trong tương lai từ đó có kế hoạch phòng ngừa có hiệu quả cao nhất. Cũng qua việc nghiên cứu tội phạm này, đề tài nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc làm cản trở công tác giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng đồng thời đề tài đã đưa ra những quan điểm trong việc hoàn thiện công tác đấu tranh với tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có về mặt pháp lý. Điều này tạo cơ sở quan trọng nhằm hạn chế tình hình tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tiến tới loại trừ hoàn toàn tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội. 3.Ý nghĩa của đề tài Ý nghĩa khoa học: Giúp chúng ta hiểu được những căn cứ, những quy luật phát triển của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, là căn cứ để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn: Nâng cao vai trò của Đảng và nhà nước trong việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho người dân, từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm trong quá trình xử lý, đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, là một nội dung cần thiết để nâng cao vai trò quản lý của nhà nước, bảo vệ cuộc sống bình yên cho xã hội, để pháp luật đi sâu vào đời sống của nhân dân. Nâng cao công tác xét xử của tòa án, để từ đó có phương hướng hoàn thiện điều luật quy định về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy luật đặc thù của sự phát triển, những thuộc tính chung, những biểu hiện quan trọng nhất của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài được nghiên cứu trên cơ sở pháp luật hình sự Việt Nam và các văn bản khác có liên quan. Đồng thời, đề tài được nghiên cứu dựa trên số liệu về sự diễn biến của tình hình tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở địa bàn huyện từ năm 2005 đến năm 2008 nhằm, góp phần vào việc tăng cường hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng trên địa bàn huyện. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp luận Mác Lê Nin: là phương pháp nghiên cứu nghiên cứu các hiện tượng xã hội trong sự phát triển lịch sử cụ thể, trong mối liên hệ mật thiết với những yếu tố quy định chúng và gắn liền với đời sống thực tế. Đề tài đã sử dụng phương pháp luận Mác Lê Nin để nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của tội phạm này dưới góc độ tội phạm học, đồng thời sử dụng những phương pháp đặc thù trong tội phạm học nhằm làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, số lượng tội phạm ẩn, tội phạm thống kê, thực trạng tình hình tội phạm (phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp). Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp so sánh pháp luật để so sánh các văn bản pháp luật khác nhau có quy định về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có để so sánh, từ đó rút ra những điểm mới tiến bộ cũng như những hạn chế của các văn bản pháp luật hiện hành. 6. Bố cục của đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo pháp luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An Chương 3: Nguyên nhân và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ 1.1. Khái niệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 1.1.1 Khái niệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo pháp luật hình sự Việt Nam Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho xã hội, những hành vi này không chỉ trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội mà còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý người phạm tội, gián tiếp khuyến khích người khác phạm tội, phạm tội nhiều lần [4, 23]. Do vậy theo luật hình sự Việt Nam, hành vi này được coi là tội phạm từ rất sớm. Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng chống tội phạm có tổ chức, mafia thì tài sản được định nghĩa như sau: “Tài sản là mọi của cải dù là vật chất hay phi vật chất, động sản hay bất động sản, hữu hình hay vô hình và các văn bản hay văn kiện pháp lý là bằng chứng cho việc sở hữu hoặc lợi ích cho những của cải đó”. Còn tài sản do người khác phạm tội mà có là “bất cứ tài sản nào bắt nguồn hay có được một cách trực tiếp hay gián tiếp từ việc phạm tội” [14, 2] Ở Việt Nam, tài sản để thục hiện hành vi tiêu thụ ở đây bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [6, 83]. Như vậy, đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản. Tài sản do người khác phạm tội mà có, có thể là tài sản của Nhà nước, của tổ chức, hoặc của công dân. [16, 446] Người tiến hành hoạt động tiêu thụ ở đây rất đa dạng thể hiện dưới các hình thức khác nhau nhằm thu lợi bất chính. Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi mua, trao đổi, nhận hoặc giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có (do trộm cắp tài sản, cướp tài sản…)[34,764]. Hành vi phạm tội của người khác đó có thể là bất kỳ tội phạm nào đựơc quy định trong BLHS mà kết quả trực tiếp của nó là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp. Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội ở tội này được thực hiện không có sự hứa hẹn trước với người có tài sản do phạm tội mà có. Do vậy, hành vi tiêu thụ không có tác động đến việc thực hiện tội phạm của người có tài sản do phạm tội mà có. Đây là điểm khác so với hành vi giúp sức trong đồng phạm. Hành vi có hứa hẹn trước có tác động đến việc thực hiện tội phạm do đó được coi là hành vi giúp sức trong đồng phạm. 1.1.2. Vài nét về sự hình thành của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 1.1.2.1. Dưới chế độ phong kiến đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Ở thời kỳ này pháp luật nước ta phải kể đến bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật. Mặc dù chưa có định nghĩa pháp lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng bộ luật đã đề cập loại tội phạm này tại nhiều điều luật. Điều 294 Quốc triều hình luật quy định: “Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đồ, đã lấy được của thì phải bồi thường một phần tang vật. Những kẻ chứa chấp thì bị buộc tội nhẹ hơn một bậc và bắt bồi thường một phần ba tang vật. Kẻ biết việc mà không cáo giác bị tội nhẹ hơn hai bậc”. Trong điều luật này hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được các nhà làm luật đánh giá là ít nguy hiểm hơn so với tội không tố giác tội phạm. Hành vi chứa chấp và tiêu thụ thường gắn liền với nhau. Quốc triều hình luật còn đề cập tới tội phạm này tại điều 460: “Những kẻ nhận tài vật của kẻ ăn trộm, thay đổi hình dạng rồi đem bán thì xử nhẹ hơn tội ăn trộm một bậc. Nếu vì nhầm mà nhận những đồ vật ấy, thì chỉ phạt 60 trượng, biếm, biếm hai tư. Nếu không biết mà mua những đồ vật ấy, thì truy số tiền mua ở người bán, còn đồ vật thì được trả lại cho chủ mất”. Như vậy tại điều luật này, người mua phải đồ gian nhưng ngay tình thì được lấy lại số tiền đã mua ở người bán còn đồ gian thì được trả lại cho người mất trộm. Đây là quy định hợp lý thể hiện trình độ lập pháp rất cao của bộ luật Hồng Đức. Ngay từ rất sớm, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được các nhà làm luật phong kiến đưa vào và xử phạt nghiêm khắc không thua kém những người có hành vi trộm cắp. Tại khoản 6, điều 351, Hoàng Việt hình luật cũng đề cập tới tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có song song với các hành vi chứa chấp: “người nào tri tình mà oa trữ một phần hay toàn phần của trộm cướp hoặc của lừa gạt hoặc của gì do phạm tội đại hình mà lấy được, thì người oa trữ sẽ bị phạt một nửa tội danh mà luật đã định phạt về tội đại hình ấy và về trọng hình trong tội đại hình ấy mà người oa trữ đã tri tình. Tuy nhiên nếu tội danh ấy là tử hình hay khổ sai chung thân, thì người oa trữ sẽ bị phạt khổ sai từ 6 năm đến 20 năm”. Từ những quy định trên, có thể thấy tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được Hoàng Việt hình luật đề cập rất cụ thể. Theo bộ luật, loại tội phạm này không chỉ liên quan tới tội trộm cắp như trong Quốc triều hình luật, mà còn có thể liên quan tới tội phạm khác. Mặc dù trong điều luật chưa đề cập khá cụ thể về định nghĩa pháp lý của tội này nhưng đây có thể xem là bước tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật lập pháp hình sự đối với tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Hoàng Việt hình luật. 1.1.2.2. Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985 Nhà nước luôn coi hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm. Thời kỳ đầu, tại sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2 năm 1946 trừng trị nghiêm khắc những kẻ phá hoại cầu cống, đường giao thông, dây điện thoại… đã đề cập tới tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: “những kẻ oa trữ các dây điện thoại hay dây điện tín cũng bị phạt như những kẻ ăn trộm các đồ vật ấy”. Trong quy định này phạm vi đồng phạm được quy định rộng, bao gồm cả hành vi oa trữ, tức là hành vi tiêu thụ và chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, không phân biệt có hứa hẹn trước hay không. Có thể thấy rằng, luật cũng chưa quy định tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thành tội danh riêng mà coi việc xử phạt người có hành vi này như là người chính phạm, không phân biệt giữa hành vi oa trữ là đồng phạm nếu có hứa hẹn trước với hành vi oa trữ không phải là đồng phạm mà là tội danh riêng biệt nếu không có sự hứa hẹn trước [33, 7]. Để quy định cụ thể hơn về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Nhà nước đã ban hành pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa tại điều 17 và pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân tại điều 13 (ban hành vào ngày 21 tháng 10 năm 1970). Trong các văn bản này thì tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mới được quy định thành chương riêng. Nhưng theo hai pháp lệnh này, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có khách thể là quan hệ sở hữu và được xếp vào nhóm tội cố ý trực tiếp xâm hại tới tài sản. Hơn nữa, trong các pháp lệnh đó cũng chưa có sự phân biệt giữa hành vi tiêu thụ và hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm độc lập nếu không có sự hứa hẹn, thỏa thuận trước giữa những người chứa chấp, tiêu thụ với những người có tài sản do chiếm đoạt mà có. Sự phân biệt hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cấu thành tội độc lập với hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có cấu thành hành vi đồng phạm được thể hiện trong văn bản giải thích luật liên nghành của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an [29, 207] 1.1.2.3. Từ năm 1985 đến trước khi BLHS năm 1999 có hiệu lực Trong BLHS năm 1985, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định thành tội danh riêng tại điều 201. Điều luật này quy định phạm vi áp dụng rộng hơn so với hai pháp lệnh được ban hành ngày 20 tháng 10 năm 1970, không chỉ với tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân mà còn cả những tài sản khác, không chỉ tiêu thụ cho người phạm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và người xâm phạm tài sản riêng của công dân mà cho tất cả các hành vi phạm tội. Điều luật này quy định như sau: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm . 2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. Có tổ chức Tài sản có số lượng hoặc có giá trị lớn Tái phạm nguy hiểm”. Ngoài ra theo các khoản 2, 3 điều 218 BLHS năm 1985 người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có còn có thể bị quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm hoặc 5 năm, bị phạt tiền từ một ngàn đồng đến 50 ngàn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản. Từ đây, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không còn được coi là tội cố ý trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản mà là tội xâm phạm trật tự công cộng có khách thể trực tiếp là trật tự công cộng. BLHS cũng phân biệt trường hợp chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cấu thành tội độc lập với trường hợp chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cấu thành hành vi đồng phạm bằng việc quy định: “Người nào không hứa hẹn trước…”. BLHS cũng không giới hạn đối tượng của tội phạm này như trong pháp lệnh 1 và 2 (được ban hành ngày 20 tháng 10 năm 1970) mà mở rộng đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, không chỉ là tài sản bị chiếm đoạt mà còn là tài sản do người khác phạm bất cứ tội gì mà có. Trong lần sửa đổi bổ sung BLHS năm 1985 (lần thứ 2 năm 1991), quy định về hình phạt của tội này đã được sửa đổi theo hướng phân hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ hơn. Cụ thể, điều 201 được cấu tạo bởi ba khung hình phạt, trong đó có một số tình tiết định khung tăng nặng được quy đinh bổ sung thêm. Đồng thời, hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thay đổi từ một nghìn đồng đến năm mươi nghìn đồng thành từ 1 triệu đồng tới 50 triệu đồng. Như vậy, BLHS năm 1985 đã có một số điểm tiến bộ sau: -Thứ nhất, tội danh tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự sửa đổi có tính khái quát cao hơn, nội hàm rộng, chính xác hơn. -Thứ hai, thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật, tạo điều kiện cá thể hóa trong áp dụng luật 1.1.2.4. Từ năm 1999 cho tới nay Kế thừa những điểm lập pháp tiến bộ của BLHS năm 1985, hiện nay tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại điều 250 của BLHS năm 1999 và nằm trong chương XIX về các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: "Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: Có tổ chức. Có tính chất chuyên nghiệp. Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn. Thu lợi bất chính. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm: Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn. Thu lợi bất chính rất lớn. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn. Thu lợi bất chính đặc biệt. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này." Như vậy, so với quy định tại điều 201 BLHS năm 1985 tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại điều 250 bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm sửa đổi và bổ sung như sau: -Về cơ cấu, ngoài hình phạt bổ sung, điều 250 BLHS năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản tương ứng với 4 khung hình phạt (Điều 201 có 3 khoản). -Bổ sung các tình tiết “tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn, đặc biệt lớn, thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn” là yếu tố khung hình phạt; bỏ tình tiết “tài sản, vật phạm pháp có số lượng lớn, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiệm trọng” là yếu tố định khung hình phạt. -Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính quy định tại khoản 1 của điều luật và tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ lên ba năm; hình phạt bổ sung được quy định trong một điều luật và tăng mức phạt từ một triệu đến năm triệu lên từ ba triệu đến ba mươi triệu và bổ sung hình phạt tịch thu toàn bộ tài sản mà BLHS năm 1985 chỉ quy định tịch thu một phần tài sản. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 1999 có một số điểm mới sau đây: Thứ nhất: tại khung cơ bản, có bổ sung thêm hình phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, nâng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm và nâng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn lên 6 tháng. Thứ hai: tiếp tục phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật bằng việc quy định ba khung hình phạt tăng nặng, trong đó có quy định các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt củ thể như: có tổ chức, có tính chuyên nghiệp, tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn; tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn, thu lợi bất chính có giá trị đặc biệt lớn. Thứ ba, quy định thêm hình phạt bổ sung để tăng mức trừng phạt, răn đe đối với loại tội phạm này. 1.2. Dấu hiệu pháp lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của BLHS năm 1999 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý” [8,19]và “chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định thì mới coi là tội ph
Tài liệu liên quan