Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu

Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội, nên phát triển nguồn nhân lực luôn được sự quan tâm chú ý trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta. Trước tiên để phát triển con người toàn diện thì cần phải có một sức khỏe tốt, nếu không có một thể lực mạnh khỏe thì khó có thể làm được việc gì. Hồ Chí Minh cũng đãn rất coi trọng sức khỏe con người, Người đã từng nói: “Mõi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Dân cường thì nước thịnh”. Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cũng đã nêu: “Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của bản thân xã hội”. Sức khỏe là vốn quý có sức khỏe thì sẽ khỏe mạnh, làm giàu cho bản thân tạo ra nhiều của cải cho xã hội thúc đẩy đất nước phát triển. Vấn đề chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân đang là mối quan tâm của xã hội hiện nay, toàn Đảng toàn dân ta luôn quan tâm chú ý đến vấn đề này và được thể hiện nhất quán trong nghị quyết Trung ương khóa VII là: “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, trách nhiệm của Đảng, của chính quyền, ”. Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 – 2010 có đưa ra mục tiêu chung là : Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ CSSKBĐ, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. (12)

doc45 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội, nên phát triển nguồn nhân lực luôn được sự quan tâm chú ý trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta. Trước tiên để phát triển con người toàn diện thì cần phải có một sức khỏe tốt, nếu không có một thể lực mạnh khỏe thì khó có thể làm được việc gì. Hồ Chí Minh cũng đãn rất coi trọng sức khỏe con người, Người đã từng nói: “Mõi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Dân cường thì nước thịnh”. Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cũng đã nêu: “Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của bản thân xã hội”. Sức khỏe là vốn quý có sức khỏe thì sẽ khỏe mạnh, làm giàu cho bản thân tạo ra nhiều của cải cho xã hội thúc đẩy đất nước phát triển. Vấn đề chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân đang là mối quan tâm của xã hội hiện nay, toàn Đảng toàn dân ta luôn quan tâm chú ý đến vấn đề này và được thể hiện nhất quán trong nghị quyết Trung ương khóa VII là: “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, trách nhiệm của Đảng, của chính quyền, …”. Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 – 2010 có đưa ra mục tiêu chung là : Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ CSSKBĐ, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. (12) Đặc biệt là việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho đối tượng người nghèo nói chung và người nghèo dân tộc thiểu số nói riêng, được thể hiện trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trong đó, đặc biệt quan trọng là các văn bản về đảm bảo quyền được khám chữa bệnh và tăng cường khả năng tiếp cận cũng như sử dụng dịch vụ y tế của mọi người dân thông qua các chính sách phát triển bảo hiểm y tế và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Như: Quyết định 135/1998/QĐ - TTg năm 1998, được Thủ tướng Chính phủ ban hành và phê duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu vùng xa. Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 186/2001/QĐ - TTg về chương trình phát triển kinh tế xã hội cho 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn, đó là: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai, Hà Giang, Sơn La và Lai Châu. Năm 2002, ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 06 – CT/TW về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, trong đó nêu rõ: “Cần phải xây dựng các chính sách y tế ưu tiên cho người dân sống ở khu vực vùng sâu, vùng xa, đặc biệt người dân tộc thiểu số nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, góp phần nâng cao sức khỏe người dân”. Được sự quan tâm ngày càng nhiều của Đảng và Nhà nước, trên thực tế là, tại rất nhiều xã miền núi các trạm y tế với đội ngũ thầy thuốc đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về chữa bệnh cho nhân dân. Thực trạng đó thể hiện qua số lượt người dân đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế đã ngày một tăng lên. Lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào các thầy thuốc tây y ngày càng được củng cố. Có thể có một cái nhìn khái quát là hệ thống y tế Nhà Nước ở các cơ sở đã có nỗ lực lớn thu hút người dân miền núi đến khám và chữa bệnh. Đó là một khía cạnh đáng mừng, tuy nhiên thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho các dân tộc thiểu số có số dân quá ít như dân tộc La Hủ còn đang tồn tại rất nhiều bất cập. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện nhiều chính sách, chương trình dự án nhằm nâng cao đời sống, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa xã hội vùng các dân tộc thiểu số đặc biệt là dân tộc La Hủ. Hệ thống cơ sở hạ tầng vùng dân tộc La Hủ đã được Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng, đời sống cộng đồng dân tộc La Hủ phần nào được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên , do một số hạn chế: địa bàn cư trú khó khăn, trình độ học vấn, khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật, … còn kém nên mặc dù được Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ phát triển sản xuất, … nhưng dân tộc La Hủ vẫn là dân tộc có mức sống thấp, tỷ lệ hộ nghèo đói cao, chất lượng chăm sóc sức khỏe đồng bào La Hủ còn nhiều hạn chế. Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu). 2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 2.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu dựa trên các kiến thức của xã hội học chuyên ngành và xã hội học đại cương nhằm làm rõ vấn đề “thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”. Qua nghiên cứu giúp cho việc củng cố và hoàn thiện hơn hệ thống lý luận của xã hội học chuyên ngành và xã hội học đại cương. Đồng thời từ cái nhìn khái quát hóa, trừu tượng hóa mở ra một số hướng tiếp cận về hoạt động y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số dưới góc độ xã hội học, gợi mở những nghiên cứu tiếp theo với quy mô lớn hơn sâu hơn. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn Dưới góc độ tiếp cận của xã hội học cho chúng ta thấy rõ thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu số La Hủ ở xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao – thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Đồng thời tìm ra những mặt tích cực, những mặt hạn chế cần khắc phục trong hoạt động của cán bộ y tế ở các vùng dân tộc thiểu số. Giúp chúng ta thấy rõ được sự đánh giá của người dân về một số yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cộng đồng y tế. Đề xuất giải pháp để khắc phục những khó khăn yếu kém còn tồn tại phát huy vai trò đội ngũ cán bộ y tế của dân tộc La Hủ ở huyện Mường Tè nói riêng và cả nước nói chung. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”. Trong khuôn khổ của một báo cáo thực tập về chuyên ngành xã hội học tôi tập trung làm rõ thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu về một số vấn đề sau: * Thực trạng về kiện toàn mạng lưới y tế ở địa bàn dân tộc La Hủ sinh sống. * Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em * Thực trạng vệ sinh môi trường của đồng bào. * Từ việc phân tích trên tôi xin đưa ra một số kết luận và khuyến nghị có tính khả thi giúp các nhà hoạch định chính sách cùng chính quyền địa phương có cơ sở tham khảo để đề ra những chính sách và chương trình, kế hoạch phát triển để nâng cao chất lượng chăm sóc ban đầu cho dân tộc La Hủ ở địa bàn huyện Mường Tè nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung trong cả nước. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”. 4.2. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của đề tài là: Dân tộc La Hủ sinh sống trên địa bàn xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu. 4.3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ báo cáo thực tập về: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”, tôi đã sử dụng nguồn tư liệu, số liệu tổng hợp của: * Dự thảo báo cáo tổng hợp: “Dự án điều tra cơ bản dân tộc La Hủ” – năm 2006, của KS, CN Vy Xuân Hoa – Phó vụ trưởng Vụ chính sách dân tộc, thuộc ủy ban dân tộc miền núi. - Trong dự án này đã tiến hành điều tra 454 hộ đồng bào dân tộc La Hủ trên địa bàn 5 xã thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu: + Xã Bum Tở + Xã Ba Vệ Sủ + Xã Pa ủ + Xã Ka Lăng + Xã Nậm Khao Dự án điều tra về: + Kinh tế + Văn hóa, y tế và giáo dục + Chính sách và thực hiện chính sách. Ở báo cáo của tôi, tôi xin phép lấy một phần số liệu về y tế. 5. Phương pháp nghiên cứu Để có được những số liệu biên bản phỏng vấn sâu trong báo cáo của tôi, tôi đã sử dụng phương pháp phân tích tài liệu dựa trên số liệu của Dự thảo báo cáo tổng hợp: “Dự án điều tra cơ bản dân tộc La Hủ” – năm 2006, của KS, CN Vy Xuân Hoa – Phó vụ trưởng Vụ chính sách dân tộc, thuộc ủy ban dân tộc miền núi. 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 6.1. Giả thuyết nghiên cứu. Mô tả về: * Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở tuy đã có những đầu tư đáng kể xong còn tồn tại nhiều hạn chế, tỷ lệ hoạt động của các trạm y tê quá thấp so với số lượng dân cư; số lượng cán bộ y tế tại các xã còn rất ít, nơi đến khám chữa bệnh của đồng bào dân tộc. * Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em ngày càng được quan tâm nhiều hơn, được thể hiện qua các chỉ báo về: Nơi sinh đẻ; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ được uống và tiêm phòng. * Vệ sinh môi trường của dân tộc La Hủ còn kém. 6.2. Khung lý thuyết  CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu 1.1. Quan điểm Macxít Đề tài nghiên cứu của tôi được vận dụng triệt để nguyên tắc và quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc phân tích “thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”. Đối tượng nghiên cứu đòi hỏi phải xem xét như một chỉnh thể thống nhất trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố: kinh tế, văn hóa, xã hội. Đồng thời phải luôn luôn nhìn đối tượng trong sự vận động, biến đổi, phát triển trong điều kiện lịch sử cụ thể. ở đây tôi xem xét thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ được đặt trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội trong điều kiện cụ thể của địa phương, là địa bàn vùng núi non hiểm trở – tất cả mọi điều kiện nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần của đồng bào còn rất nhiều hạn chế. Vậy thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ cũng còn rất nhiều vấn đề bất cập, bên cạnh những mặt đã đạt được sẽ còn không ít hạn chế. Ngoài việc vận dụng triệt để cơ sở lý luận chung đề tài còn vận dụng một số lý thuyết của xã hội học đại cương và xã hội học chuyên ngành nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu này. 1.2. Lý thuyết xã hội học sức khỏe – bệnh tật theo quan điểm K.Marl – Engels Trong tác phẩm K.Marl – Engels toàn tập: “Tinh cảnh giai cấp công nhân”, đứng trên lập trường Macxít. Engels cho rằng sức khỏe được coi nhu là vũ khí chính trị mà giai cấp tư ssản dùng để chế ngự giai cấp công nhân, còn giai cấp công nhân thì coi sức khỏe là tài sản duy nhất của họ trong quan hệ xã hội với các nhà tư sản. Đặc điểm chung của phương pháp Mac – xít là tìm cách gắn bệnh tật với cấu trúc kinh tế, sự phát triển về chính trị. Theo Engels bệnh tật là một biểu hiện và là kết quả trực tiếp chạy theo lợi nhuận bất chấp sự an toàn trong lao động. An toàn ở đây không chỉ bó hẹp trong nội dung công nghiệp mà còn có ý nghĩa đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người, đảm bảo an ninh xã hội bao gồm đời sống như: Nhà ở, lương thực, thực phẩm, thuốc men. Engels đưa ra hai điểm cơ bản đặt ra cơ sở nhận thức Mac – xít về y học xã hội, cơ sở một khoa học xã hội về sức khỏe: - Thứ nhất: Bệnh tật không phải là sản phẩm của phẩm chất cá nhân và tai nạn, là sản phẩm của tổ chức công nghiệp. - Ốm đau và bệnh tật trước hểt là sản phẩm của điều kiện xã hội chứ không phải do sự cố sự vật không thể tránh khỏi, Engels bác bỏ quan niệm thần học khi giải thích hiện tượng bất công trong xã hội, ông xem xét việc sản sinh ra bệnh tật trong mối quan hệ với sự nghèo khổ. Có nghĩa là trong gia đình, vùng có mức sống thấp phải sống trong những điều kiện tồi tàn, ô nhiễm, ăn uống không đủ chất nên dễ bị bệnh. Engels và các tác giả Mac – xít khác đã nhìn thấy bệnh tật và chính trị nó như một kế hoạch của quá trình xã hội. - Áp dụng lý thuyết sức khỏe bệnh tật trên quan niệm Mac – xít vào trong nghiên cứu “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” ở xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu thì bệnh tật của người dân không phải là sản phẩm của cá nhân mà nó là sản phẩm của điều kiện xã hội cụ thể. Việc sản sinh ra bệnh tật là do nghèo khổ, gia đình ở các khu vực có mức sống thấp thường phải sống trong vùng điều kiện ăn ở tồi tàn không đảm bảo vệ sinh dễ bị bệnh mà đây là ở các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao – là địa bàn miền núi điều kiện sống chưa phát triển, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, môi trường sống mang đặc trưng vùng núi cao, ít có sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài nên điều kiện đó rất dễ mắc bệnh. Vì vậy thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây còn tồn tại những vấn đề gì ? Các cơ quan ban ngành cần có các chính sách, sự quan tâm đầu tư đúng đắn và nhiều hơn nữa để đảm bảo nâng cao sức khỏe cho đồng bào dân tộc La Hủ. 1.3. Lý thuyết hành động xã hội Theo quan điểm Max Weber: “ Hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định”. Weber đã nhấn mạnh đến “động cơ” bên trong của chủ thể gắn cho nó ý nghĩa chủ quan nhất định. Hành động xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức. Những thành tố cấu thành nên hành động xã hội là: Động cơ, mục đích, chủ thể, hoàn cảnh, môi trường, công cụ phương tiện. Khởi điểm của phương tiện hành động xã hội là nhu cầu, lợi ích của cá nhân. Những yếu tố này tạo ra động cơ thúc đẩy hành động. Nhu cầu của chủ thể tạo ra động cơ thúc đẩy hành động để thỏa mãn nó. Động cơ này sẽ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham gia định hướng hành động và quy định mục đích của hành động. Thành tố tiếp theo trong cấu trúc của hành động xã hội là chủ thể của hành động. Chủ thể hành động có thể là cá nhân, nhóm, cộng đồng hay toàn thể xã hội. Có thể nói rằng để có một hành động xã hội thì cần phải có tối thiểu là một chủ thể. Một yếu tố khác trong cấu trúc của hành động xã hội là hoàn cảnh hoặc môi trường của hành động. Nói cách khác đó là những điều kiện về thời gian, không gian, vật chất và tinh thần của hành động. Tùy theo hoàn cảnh hành động, các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án tối ưu nhất với họ. Áp dụng vào thực tiễn đề tài nghiên cứu theo quan điểm của Max Weber: Là do nhu cầu (muốn được chữa trị, quan tâm chăm sóc, … ) của đồng bào dân tộc La Hủ, ở trong hoàn cảnh cho phép (là ngày càng được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước) tác động vào chủ thể hành động, thông qua phương tiện ( ở đây là hệ thống mạng lưới y tế tại địa bàn các xã ), để đạt mục đích ban đầu thỏa mãn nhu cầu. Nhưng việc thỏa mãn nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ như thế nào, thực trạng của vấn đề ra sao ? trong báo cáo tôi xin trình bày về nội dung này. 2. Khái niệm công cụ * Khái niệm sức khỏe Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi con người chúng ta và được coi là giá trị chung của nhân loại. Khái niệm sức khỏe trong đời sống hàng ngày được hiểu như là: Sức khỏe là không ốm đau bệnh tật, không phải đến bệnh viện. Người có sức khỏe là người có cơ thể cường tráng, cơ thể hoạt động bình thường có khả năng lao động, làm việc và hoạt động với năng suất chất lượng cao. Tổ chức Y tế thế giới WHO (World Healthy Organization) đã đưa ra khái niệm sức khỏe như sau: “ Sức khỏe là trạng thái sảng khoái về mặt thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh hay tật, không yếu đuối mà là ở trạng thái có thể chất tốt, trí tuệ phát triển và xã hội lành mạnh”. Năm 1978, Hội nghị quốc tế của 134 nước và 67 tổ chức quốc tế ở Alma – Ata đưa ra một tuyên ngôn quan trọng kêu gọi đẩy mạnh sức khỏe cho nhân dân và cũng cho rằng sức khỏe liên quan đến đến cả về thể chất, tinh thần và xã hội. Như vậy, sức khỏe là trạng thái hoàn chỉnh về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh và thương tật.Sức khỏe là tài sản riêng của mỗi cá thể đồng thời cũng là tài sản quý giá chung của cả cộng đồng. Tất cả mọi người trên hành tinh này đều có mơ ước sống khỏe mạnh để cống hiến tối đa cho bản thân, gia đình và xã hội. Bảo vệ sức khỏe là quyền lợi đồng thời cũng là nghĩa vụ cao cả của mọi người, mọi ngành trong toàn xã hội. * Chăm sóc sức khỏe ban đầu Khái niệm chăm sóc sức khỏe Theo tác giả Hoàng Đình Cầu trong cuốn: “Quản lý và chăm sóc sức khỏe ban đầu”, NXB Y học Hà Nội năm 1995. Chăm sóc sức khỏe: Là việc làm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt (nhu cầu đầy đủ dinh dưỡng, được vui chơi giải trí …), để đảm bảo trạng thái thỏa mãn về thể chất, tinh thần, xã hội của mỗi thành viên trong xã hội. Khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu Khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu được Đại hội sức khỏe thế giới Alma – Ata định nghĩa như sau: “ Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những chăm sóc thiết yếu, xây dựng trên những phương pháp và kỹ thuật thực hành có cơ sở khoa học và chấp nhận về mặt xã hội. Có thể phổ biến rộng rãi cho cá nhân và gia đình của cộng đồng xã hội ở nước đó có thể chịu đựng được ở mỗi giai đoạn phát triển của họ và theo một tinh thần tự nguyện, tự giác”. CSSKBĐ có 8 nội dung sau: - Giáo dục sức khỏe - Dinh dưỡng hợp lý - Cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường - Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em – kế hoạch hóa gia đình - Phòng và chống các dịch bệnh đang lưu hành ở địa phương - Tiêm chủng mở rộng (chủ yếu 6 bệnh lây nhiễm ở trẻ em) - Điều trị bệnh thông thường và thương tích tại nhà - Đảm bảo thuốc thiết yếu và trang bị chủ yếu Ở Việt Nam, để phù hợp với điều kiện thực tế thì ngoài 8 nội dung trên còn có thêm 2 nội dung sau: - Quản lý sức khỏe - Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở Ở đề tài này chúng ta tìm hiểu cụ thể thực trạng CSSKBĐ cho dân tộc La Hủ, là sự mô tả thực trạng CSSKBĐ về các nội dung sau: Thực trạng kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở thể hiện qua: hoạt động của các trạm y tế tại địa bàn các xã, số lượng cán bộ y tế tại các xã, nơi chữa bệnh.Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em thể hiện qua các chỉ báo về: Nơi sinh đẻ; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ được uống và tiêm phòng. Các yếu tố về vệ sinh môi trường, … để mang lại cuộc sống khỏe mạnh cho đồng bào dân tộc. 3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Vấn đề chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng luôn được sự quan tâm của tất cả mọi người. Đại hội sức khỏe thế giới ở Alma – Ata tổ chức năm 1978, đã đưa ra 8 nội dung CSSKBĐ cho cộng đồng có liên quan đến vấn đề: CSSK bà mẹ – trẻ em và vệ sinh, phòng chống các dịch bệnh đã nêu trên. Ở Việt Nam Đảng và Nhà nước cũng ban hành nhiều chủ trương về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Việc CSSKBĐ cho nhân dân,chúng ta cứ nghĩ thuộc lĩnh vực nghiên cứu của ngành y tế. Nhưng nghiên cứu về CSSKBĐ cho nhân dân đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Ngành xã hội học cũng có những nghiên cứu về CSSKBĐ cho nhân dân như trong tạp chí xã hội học có chuyên đề “Nghiên cứu xã hội học về sức khỏe”, tác giả James Allman có những bài viết quan trọng về “chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Việt Nam”, trên tạp chí xã hội học số 2 năm 1993. Nguyễn Hồng Sơn nghiên cứu “Vai trò của hệ thống y tế cơ sở trong CSSKBĐ cộng đồng nhân dân huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc”, khóa luận tốt nghiệp K38 chuyên ngành xã hội học. Tác giả đề cập đến hệ thống y tế cơ sở y trong chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn. Bùi Thị Hồng Thùy nghiên cứu “ảnh hưởng của hoạt động y tế cơ sở trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng nông thôn trong những năm gần đây”, khóa luận tốt nghiệp K41 chuyên ngành xã hội học. Cả hai nghiên cứu trên đều xoay quanh những vấn đề hệ thống y tế cơ sở: Thực trạng chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn của hệ thống y tế cơ sở như thế nào, có đề cập đến đội ngũ cán bộ y tế xã, cùng trang thiết bị của trạm y tế ra sao. Hệ thống y tế này đóng vai trò như thế nào trong chăm sóc CSSKBĐ cho cộng đồng. “Phụ nữ, sức khỏe và môi trường” (Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển), do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2001 đã tập trung vào mấy vấn đề chính sau đây: Một là mô tả điều kiện và môi trường làm việc trong mối quan hệ với sức khỏe lao động nữ. Hai là ngh
Tài liệu liên quan