Các thông tin chung về thực trạng ATTP
cũng như công tác quản lý nhà nước về ATTP
hiện nay được thu thập từ các cơ quan, ban
ngành liên quan từ tỉnh đến địa phương (Sở Y
tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Sở Công thương, Sở Khoa học và Công nghệ,
Công an tỉnh, UBND các huyện).
Sử dụng phiếu điều tra để phỏng vấn cán
bộ quản lý nhà nước về ATTP từ cấp tỉnh đến
xã và phỏng vấn người dân. Tổng số phiếu
điều tra là 236 phiếu, trong đó cán bộ quản lý
có 86 phiếu và người dân có 150 phiếu. Công
tác điều tra được thực hiện từ tháng 3-7/2017.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2017 [27]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) là một
trong những vấn đề được quan tâm ngày càng
sâu sắc trên phạm vi mỗi quốc gia và quốc tế
bởi sự liên quan trực tiếp của nó đến sức khỏe
và tính mạng con người, ảnh hưởng đến sự duy
trì, nòi giống, cũng như quá trình phát triển và
hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với xu hướng
phát triển của xã hội và toàn cầu hóa, bệnh
truyền qua thực phẩm và ngộ độc thực phẩm
đang đứng trước nhiều thách thức mới, diễn
biến mới về cả tính chất, mức độ và phạm vi
ảnh hưởng (Havelaa, 2014).
Theo báo cáo của Chính phủ, trong giai
đoạn 2011-2016, toàn quốc đã ghi nhận 1.007
vụ ngộ độc thực phẩm với 30.395 người mắc
và 164 người chết. Trung bình có 167,8 vụ/
năm với 5.065,8 người mắc/năm và 27,3
người chết do ngộ độc thực phẩm/năm [1].
Trong 5 năm 2011-2016, trên địa bàn tỉnh
Thực trạng công tác quản lý nhà nước
về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Nghệ An
n Trần Ngọc Toàn(1), Nguyễn Đình Vinh(1)
Nguyễn Trọng Lê Chi(2)
Nghệ An đã xảy ra 51 vụ ngộ độc thực phẩm với 975
người mắc. Tỷ lệ mắc ngộ độc thực phẩm ở mức
<6/100.000 dân [3].
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn, nền sản xuất chủ
yếu là thủ công, nhỏ lẻ, kinh tế hộ gia đình và cá thể là
chủ yếu, nhận thức về trách nhiệm sản phẩm còn hạn
chế, đặc biệt ở một số mặt hàng truyền thống chỉ mang
tính chất hộ gia đình, do vậy khó đáp ứng được các quy
định về điều kiện vệ sinh ATTP trong sản xuất, kinh
doanh thực phẩm [3].
Mục đích đối với công tác quản lý ATTP trong tình
hình mới gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh nhà là chủ động đề ra các phương hướng, biện
pháp bảo đảm ATTP trong việc bảo vệ sức khỏe và
quyền lợi người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu phát triển
và hội nhập. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý
nhà nước về ATTP trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Để tạo
cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp, cần đánh giá đúng
thực trạng công tác quản lý nhà nước về ATTP hiện nay
trên địa bàn tỉnh ta.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2017 [28]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp thu thập thông tin
Các thông tin chung về thực trạng ATTP
cũng như công tác quản lý nhà nước về ATTP
hiện nay được thu thập từ các cơ quan, ban
ngành liên quan từ tỉnh đến địa phương (Sở Y
tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Sở Công thương, Sở Khoa học và Công nghệ,
Công an tỉnh, UBND các huyện).
Sử dụng phiếu điều tra để phỏng vấn cán
bộ quản lý nhà nước về ATTP từ cấp tỉnh đến
xã và phỏng vấn người dân. Tổng số phiếu
điều tra là 236 phiếu, trong đó cán bộ quản lý
có 86 phiếu và người dân có 150 phiếu. Công
tác điều tra được thực hiện từ tháng 3-7/2017.
2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excell và phần mềm
SPSS 16.0 để xử lý số liệu.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng công tác quản lý nhà nước
về ATTP trên địa bàn tỉnh Nghệ An
1.1. Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức
thực hiện
Ban hành các văn bản chỉ đạo: Trong giai
đoạn 2011-2016, HĐND tỉnh đã ban hành 1
nghị quyết, UBND tỉnh đã ban hành 64 quyết
định và chỉ thị liên quan đến nội dung vệ sinh
ATTP [3].
Qua kết quả điều tra cho thấy, 70,93% số ý
kiến cho rằng các văn bản chỉ đạo điều hành
của HĐND, UBND cấp tỉnh trong triển khai
thực hiện chính sách pháp luật về quản lý
ATTP là đầy đủ và kịp thời. Có 18,6% số ý
kiến đánh giá là đầy đủ nhưng chưa kịp thời;
10,47% số ý kiến cho rằng chưa đầy đủ và
chưa kịp thời.
Hiện tại, ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp
cũng như y tế, công thương trên địa bàn tỉnh
Nghệ An chưa xây dựng, ban hành, áp dụng
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật địa phương. Hệ
thống quản lý ATTP đang áp dụng hệ thống
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của các bộ,
ngành Trung ương. Do vậy, trong thời gian tới,
tỉnh cũng cần nghiên cứu để ban hành các văn
bản mang tính đặc thù của địa phương nhưng
nằm trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
Công tác thanh tra, kiểm tra: Trong giai
đoạn 2011-2016, UBND tỉnh và các sở đã
thành lập 34 đoàn thanh tra, kiểm tra về nội
dung ATTP [3]. Các đoàn thanh kiểm tra chủ
yếu là đoàn liên ngành và chuyên ngành tuyến tỉnh. Tuy
nhiên, qua kết quả điều tra cho thấy, có 54,65% ý kiến
cho rằng số đợt thanh tra, kiểm tra trong năm còn ít, cần
tăng lên; 45,35% số ý kiến đánh giá là vừa phải, đảm
bảo yêu cầu; không có ý kiến nào cho rằng nhiều, cần
giảm bớt.
Như vậy, trong thời gian tới, cần tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về ATTP, chú trọng các cuộc thanh tra, kiểm tra đột
xuất. Cần tăng cường vai trò của tuyến cơ sở đặc biệt là
xã/phường trong thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về
ATTP.
Kết quả khảo sát cho thấy, có 43,02% số ý kiến của
cán bộ quản lý cho rằng hiệu quả của công tác thanh tra,
kiểm tra đạt cao; 47,67% ý kiến cho mức trung bình;
9,3% ý kiến đánh giá ở mức thấp.
Đồng tình với việc siết chặt công tác quản lý nhà
nước về ATTP, có 96,67% ý kiến của người dân cho rằng
nhất thiết phải quản lý chặt về ATTP. Tuy nhiên, theo
đánh giá của người dân, 69,33% ý kiến cho rằng việc
quản lý về vệ sinh ATTP hiện nay của các cơ quan chức
năng ở mức bình thường; 17,34% ý kiến cho rằng việc
quản lý đang còn lỏng lẻo; 13,33% ý kiến nhìn nhận việc
quản lý là rất chặt chẽ.
Các chế tài xử phạt: Trong giai đoạn 2011-2016,
UBND tỉnh, các sở đã thành lập nhiều đoàn thanh tra,
kiểm tra và tiến hành xử phạt nhiều cơ sở, chủ hộ vi
phạm, cụ thể [3]:
Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ
đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện thanh tra, kiểm tra
trên tất cả các lĩnh vực quản lý với 6.675 lượt cơ sở được
kiểm tra, phát hiện 2.049 lượt cơ sở có hành vi vi phạm,
tiến hành xử phạt đối với 394 cơ sở với 1.159.850.000
đồng, thu giữ, tiêu hủy hàng trăm kg sản phẩm vật tư
nông nghiệp kém chất lượng.
Ngành Y tế đã phát hiện 2.712 vụ vi phạm, xử phạt
hành chính 2.712 vụ, thu nộp ngân sách 1.164.358.000
đồng.
Lực lượng Công an toàn tỉnh đã phát hiện, bắt giữ
812 vụ, 853 đối tượng có hành vi vi phạm trong lĩnh vực
đảm bảo vệ sinh ATTP, thu giữ 205 tấn sản phẩm động
vật, 60,7 tấn cá, 81 tấn măng, 290.450 con gia cầm,
533.400 quả trứng gia cầm, 3.541 con trâu, bò, dê, chó,
gia súc, 55 tấn sứa biển, 12 tấn hóa chất, chất phụ gia
thực phẩm, 15 tấn rau, củ, quả cùng nhiều mặt hàng thực
phẩm khác không đảm bảo các quy định của pháp luật
về vệ sinh ATTP.
Chi cục Quản lý thị trường đã kiểm tra 1.452 vụ, xử
lý 1.241 vụ, tổng giá trị thu phạt là 5.729.505.000 đồng.
Trong đó, phạt hành chính là 1.331.770.000 đồng, trị giá
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2017 [29]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hàng tịch thu, tiêu hủy là 4.397.735.000 đồng.
Kết quả điều tra cho thấy, có 56,98% ý kiến
của cán bộ quản lý cho rằng các chế tài hiện
nay áp dụng để xử lý người vi phạm trong
ATTP đủ đảm bảo tính răn đe; 43,02% số ý
kiến cho rằng chưa đảm bảo tính răn đe.
Tuy nhiên, trái ngược với nhận định của các
cán bộ quản lý nhà nước về ATTP, theo người
dân, có tới 64,67% ý kiến cho rằng mức độ xử
phạt đối với những người vi phạm về ATTP
của cơ quan chức năng chưa đủ sức răn đe.
Như vậy, thời gian tới tỉnh cần nghiên cứu để
đưa ra các chế tài xử phạt ở mức cao hơn nhằm
đảm bảo tính răn đe đối với những người vi
phạm trong lĩnh vực này.
Phân tích kiểm nghiệm mẫu: Trong giai
đoạn 2011-2016, có 2 đơn vị của tỉnh đã tiến
hành lấy mẫu kiểm nghiệm đó là ngành Y tế
với 3.533 mẫu. Các mẫu được kiểm nghiệm
bao gồm nước uống đóng chai, bún phở, bánh
ướt, đá lạnh, kem, thịt lợn quay, giò lợn, chả
thịt lợn xay, chả cá, nước giải khát, dầu mỡ và
rượu. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã lấy 2.830 mẫu để kiểm nghiệm bao
gồm mẫu: rau, củ, quả tươi; thịt và các sản
phẩm từ thịt và các mẫu thủy sản [3].
Cơ quan kiểm định về ATTP được chỉ định
cho ngành Y tế đó là Trung tâm Y tế dự phòng
tỉnh. Các mẫu thực phẩm trong các đợt thanh
tra, kiểm tra, giám sát mối nguy ô nhiễm thực
phẩm, ngộ độc thực phẩm sẽ được chuyển qua
LABO của đơn vị này để tiến hành phân tích.
Hiện nay, ngành Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chưa có các cơ quan này. Các mẫu
phân tích kiểm nghiệm thường được thực hiện
dưới dạng test nhanh để phát hiện hoặc lấy
mẫu rồi gửi đi các đơn vị phân tích khác và
chờ kết quả. Do vậy, thời gian xử lý phải kéo
dài, ảnh hưởng đến công tác xử lý vi phạm.
Một khó khăn hiện nay đó là nguồn kinh
phí phục vụ cho việc phân tích kiểm nghiệm
vẫn còn rất hạn chế. Kết quả điều tra cho thấy,
có 37,21% số ý kiến cho rằng kinh phí để phân
tích, kiểm nghiệm các chỉ tiêu ATTP của đoàn
thanh kiểm tra là đảm bảo nhưng chưa kịp
thời; 30,23% số ý kiến đánh giá là đã đảm bảo,
kịp thời; 32,56% số ý kiến cho rằng chưa đảm
bảo, chưa kịp thời.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, có tới
90,7% số ý kiến của cán bộ quản lý đồng tình
với việc Nghệ An xây dựng một Trung tâm kiểm nghiệm
về ATTP để phục tốt cho công tác phân tích kiểm nghiệm
mẫu, đảm bảo nhanh chóng và kịp thời.
Đầu tư ngân sách cho công tác quản lý ATTP trên địa
bàn: Bên cạnh ngân sách Trung ương từ chương trình
Mục tiêu quốc gia vệ sinh ATTP và chương trình Mục
tiêu quốc gia y tế - dân số, UBND tỉnh đã quan tâm bố
trí ngân sách địa phương cho công tác ATTP trong giai
đoạn 2011-2016 và từng bước tháo gỡ được những khó
khăn về điều kiện công tác. Cụ thể, ngành Y tế tổng vốn
ngân sách là 13.755.000.000 đồng; ngành Nông nghiệp
là 7.296.664.000 đồng; ngành công thương là
796.776.000 đồng. Thời gian tới, cần huy động nguồn
lực, tăng ngân sách hoạt động cho công tác ATTP.
1.2. Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện sử dụng phục vụ quản lý nhà nước về
ATTP
Cơ cấu tổ chức, nhân sự: Hệ thống tổ chức cơ quan
chuyên môn quản lý an toàn thực phẩm được phân cấp
quản lý và hoạt động từ tỉnh đến địa phương, cụ thể [3]:
- Ngành Y tế:
+ Tuyến tỉnh: Giao cho Chi cục An toàn vệ sinh thực
phẩm thuộc Sở Y tế.
+ Tuyến huyện: Phòng Y tế thuộc UBND huyện,
thành, thị là đơn vị tham mưu thực hiện quản lý nhà nước
về ATTP. Khoa ATTP thuộc Trung tâm Y tế thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn.
+ Tuyến xã, phường: Có 01 chuyên trách ATTP là Trạm
trưởng Trạm y tế, 01 cán bộ cộng tác viên về ATTP.
- Ngành Nông nghiệp: Được giao cho 04 đơn vị là
Chi cục Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản
(đơn vị đầu mối); Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật;
Chi cục Chăn nuôi và Thú y; Chi cục Thủy sản. Tuyến
Vấn đề vệ sinh ATTP hiện là mối quan tâm hàng đầu
của người tiêu dùng
Nguồn: Báo Nghệ An
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2017 [30]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
huyện có các phòng Nông nghiệp.
- Ngành Công thương:
+ Tuyến tỉnh: Phòng Kỹ thuật an toàn môi
trường - Sở Công thương được giao thẩm định
hồ sơ và cấp giấy chứng nhận ATTP, Chi cục
Quản lý thị trường.
+ Tuyến huyện có phòng Công thương
hoặc phòng Kinh tế hạ tầng thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về ATTP thuộc lĩnh vực
ngành.
- Ngoài ra, Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP
được thành lập ở cấp tỉnh đến cấp huyện.
Trưởng ban chỉ đạo do đồng chí Chủ tịch
UBND làm Trưởng ban.
Kết quả điều tra cho thấy, có 52,33% ý
kiến cán bộ quản lý nhà nước về ATTP cho
rằng cơ cấu như vậy là hợp lý; 41,86% cho
rằng chưa hợp lý; 5,81% số ý kiến đánh giá là
rất hợp lý.
Về nhân sự, tính đến năm 2016, tuyến tỉnh
có 39 biên chế (trong đó: Chi cục An toàn vệ
sinh thực phẩm: 17 người; Chi cục Quản lý
chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản: 22
người). Số người biên chế kiêm nhiệm là 125
người (Chi cục Chăn nuôi và Thú y: 2 người;
Chi cục Thủy sản: 2 người; Chi cục Trồng trọt
và Bảo vệ thực vật: 2 người; Sở Công
thương: 7 người; Chi cục Quản lý thị trường:
112 người) [3].
Tuyến huyện có 108 biên chế cho các đơn
vị: Trung tâm Y tế; Phòng Y tế. Số người
biên chế kiêm nhiệm tại tuyến huyện là
khoảng 105 người, gồm các đơn vị: Phòng
Nông nghiệp/Kinh tế; Phòng Công
thương/phòng Kinh tế hạ tầng. Các đội Quản
lý thị trường: 112 người. Tuyến xã toàn tỉnh
có 960 người gồm chuyên trách Trạm Y tế,
cộng tác viên tại các xã [3].
Kết quả điều tra, khảo sát ý kiến thu được
cho thấy, có 81,4% ý kiến cho rằng thiếu
nhân sự để đáp ứng yêu cầu công việc quản
lý nhà nước về ATTP; chỉ có 18,6% ý kiến
cho rằng đảm bảo.
Đề xuất bổ sung nhân sự, các ý kiến cho
rằng cần bổ sung thêm biên chế cho lao
động, đặc biệt là các đội phụ trách các vùng
trọng điểm như thành phố Vinh, thị xã Cửa
Lò, bổ sung thêm các cán bộ có chuyên môn
sâu để phụ trách công tác quản lý ATTP.
Tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ
quản lý: Việc nâng cao năng lực cho các cán bộ quản
lý về chuyên môn nghiệp vụ ATTP là rất quan trọng.
Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh theo điều tra cho thấy mới
chỉ có 65,12% số cán bộ được hỏi là đã được tập huấn
để nâng cao năng lực trong công tác quản lý nhà nước
về ATTP hằng năm. Số còn lại (34,88%) số người chưa
được tập huấn để nâng cao năng lực.
Kinh phí chi trả, hỗ trợ: Nguồn kinh phí chi trả và hỗ
trợ cho những người được giao nhiệm vụ quản lý nhà
nước về ATTP là rất cần thiết, giúp cán bộ quản lý yên
tâm làm việc. Có 45,35 % số ý kiến cho rằng kinh phí
chi trả và hỗ trợ là chưa đảm bảo; 18,6% cho rằng đảm
bảo và có 36,05 % cho rằng không có kinh phí chi trả
hay hỗ trợ đối với họ trong quá trình làm việc.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc:
Kết quả điều tra cho thấy, có 52,33% số ý kiến cán bộ
quản lý cho rằng cơ sở vật chất để phục vụ công tác
chuyên môn ATTP hiện nay tại cơ quan làm việc là
chưa đầy đủ, chỉ đáp ứng 1 phần yêu cầu. Có 13,95%
cho rằng đầy đủ, đáp ứng yêu cầu và 29,07% đánh giá
là đang thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu. Các ý kiến cũng
cho rằng, hiện nay Nghệ An đang thiếu các cơ sở bố
trí cho cán bộ làm việc, thiếu các kho bãi để bảo quản
thực phẩm tạm giữ, tịch thu.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, có 54,65% số ý kiến
cho rằng trang thiết bị để phục vụ công tác chuyên
môn ATTP hiện nay tại cơ quan làm việc là chưa đầy
đủ, chỉ đáp ứng 1 phần yêu cầu; 24,42% số ý kiến cho
rằng thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu; 20,93% ý kiến cho
rằng không có thiết bị để phục vụ chuyên môn; không
có ý kiến nào cho rằng đầy đủ, đáp ứng yêu cầu.
Về phương tiện để phục vụ công tác chuyên môn
ATTP hiện nay tại cơ quan làm việc, có 39,53% ý kiến
cho rằng chưa đầy đủ, đáp ứng 1 phần yêu cầu; 15,12%
cho là đầy đủ, đáp ứng yêu cầu; 19,77% cho rằng
thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu; 25,58% cho là không có
phương tiện để phục vụ chuyên môn.
Để đáp ứng yêu cầu công việc, các ý kiến của cán
bộ quản lý đã đề xuất đầu tư thêm các dụng cụ để lấy
mẫu, bảo quản, test nhanh các mẫu thực phẩm. Cần bố
trí thêm chỗ làm việc và các kho bãi để bảo quản thực
phẩm tạm giữ, tịch thu.
1.3. Công tác tuyên truyền cho người dân thực
hiện tốt vệ sinh ATTP
Nhận thức của người dân về ATTP: 100% số người
được hỏi đều coi trọng vấn đề ATTP đối với cuộc sống
gia đình, trong đó có 66,67% số ý kiến đánh giá là rất
quan trọng, 33,33% ý kiến đánh giá là quan trọng.
Thông tin về ATTP: 100% số người dân được hỏi
đều biết các thông tin về vệ sinh ATTP. Trong đó,
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2017 [31]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Công tác quản lý nhà nước về vệ sinh ATTP đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng
phương tiện để phổ biến và truyền tải hiệu
quả nhất cho người dân hiện nay đó là tivi
(chiếm tỷ lệ 83,33% số ý kiến được hỏi), tiếp
đến là đài phát thanh xã (chiếm tỷ lệ 61,33%
số ý kiến được hỏi), các nguồn thông tin
khác chiếm tỷ lệ thấp.
Công tác tuyên truyền: Trong thời gian
qua, các cấp, ngành của tỉnh đã không ngừng
tuyên truyền, vận động người dân thực hiện
tốt công tác vệ sinh ATTP dưới nhiều hình
thức. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra cho
thấy, chỉ có 23,26% số ý kiến của cán bộ
quản lý cho rằng đã làm tốt việc tuyên truyền
để người dân hiểu rõ và thực hiện tốt trong
công tác ATTP; 67,44% số ý kiến cho rằng
mới chỉ ở mức trung bình; 9,3% số ý kiến
cho rằng công tác này đang còn yếu.
Cũng theo kết quả điều tra, có 81,33% số
ý kiến người dân cho rằng có cán bộ đến phổ
biến về nội dung ATTP và cán bộ xã là lực
lượng chủ yếu (chiếm 65,33% số ý kiến) trực
tiếp và thường xuyên nhất hướng dẫn mình
nuôi trồng, đánh bắt hoặc buôn bán đảm bảo
an toàn vệ sinh thực phâm̉. Như vậy, trong
thời gian tới, cần có các giải pháp đồng bộ
để tăng cường trách nhiệm và nâng cao năng
lực cho tuyến xã trong công tác quản lý nhà
nước về ATTP.
2. Các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
ATTP trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các số liệu
trong quá trình điều tra, thu thập để đánh giá
và đưa ra các giải pháp nhằm phục vụ công
tác chỉ đạo, điều hành và quản lý nhà nước
về ATTP trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tập
trung vào các nhóm giải pháp sau:
2.1. Nhóm giải pháp về thể chế, chính
sách
- Tiếp tục rà soát, nghiên cứu và đưa ra cơ
chế, chính sách cho doanh nghiệp và người
dân liên kết chuỗi cung ứng thực phẩm an
toàn. Đầu tư hạ tầng và hỗ trợ phát triển các
mô hình chuỗi giá trị thực phẩm theo hướng
sản xuất quy mô lớn gắn với thị trường tiêu
thụ. Tiếp tục chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là
một số lĩnh vực mà tỉnh Nghệ An có lợi thế
về cạnh tranh hàng hóa vùng miền.
- Cần nghiên cứu để ban hành các văn bản
chỉ đạo, các quy định và cơ chế chính sách đặc thù của
Nghệ An trong quản lý ATTP dựa trên pháp luật chung
của nhà nước.
- Cho phép các cơ quan thực thi nhiệm vụ tạm ứng
và thanh toán từ kinh phí xử phạt vi phạm hành chính
để xử lý các vi phạm trên địa bàn Nghệ An như: tiêu
hủy thực phẩm không an toàn, hàng giả, hàng kém chất
lượng, thuốc BVTV... theo Thông báo kết luận số
320/TB-UBND ngày 08/6/2016 của Chủ tịch UBND
tỉnh.
- Có cơ chế để tăng cường trách nhiệm trong quản
lý nhà nước về ATTP ở tuyến cơ sở, đặc biệt là tuyến
xã, phường.
2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, tổ chức tập huấn nâng
cao năng lực quản lý ATTP cho các cán bộ chuyên
trách và kiêm nhiệm ở các tuyến từ tỉnh đến xã trên
địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Đầu tư, trang bị đầy đủ các trang thiết bị, cơ sở
vật chất, phương tiện làm việc nhất là trụ sở làm việc
cho Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm; Chi cục Quản
lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản. Đầu tư về
nhân lực, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho khoa ATTP
tại Trung tâm Y tế tuyến huyện đủ để đảm nhận quản
lý ATTP theo phân cấp.
- Tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng nâng cấp, nâng
cao năng lực các phòng kiểm nghiệm hiện có; khuyến
khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tham
gia đầu tư mới các phòng kiểm nghiệm.
- Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Sở, ban, ngành và
chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm cộng đồng trong
việc phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm về ATTP;
(Nguồn: Báo Nghệ An)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2017 [32]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
tin báo chí, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh
tổ chức tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức,
ý thức chấp hành pháp luật về đảm bảo ATTP;
vận động người dân tích cực tố giác các hành vi
vi phạm ATTP. Tổ chức ký cam kết tới các tổ
chức, cá nhân không tham gia sản xuất, chế
biến, kinh doanh, vận chuyển thực phẩm vi
phạm ATTP, góp phần đẩy lùi tình trạng thực
phẩm “bẩn” trên địa bàn, bảo vệ sức khỏe của
cộng đồng.
- Đẩy mạnh phối hợp, chia sẻ thông tin về
ATTP giữa các sở, ngành chức năng với các lực
lượng công an, hải quan, cảnh sát môi trường,...
và chính quyền địa phương nhằm đấu tranh
ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động sản xuất,
chế biến, kinh doanh, vận chuyển thực phẩm vi
phạm ATTP.
- Tăng cường phối hợp với các tổ chức chính
trị - xã hội như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông
dân, Hội Phụ nữ... trong công tác vận động,
tuyên truyền bảo đảm ATTP.
IV. KẾT LUẬN
Bài viết đã nêu lên thực trạng công tác quản
lý nhà nước về ATTP trên các lĩnh vực: (1)
Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện;
(2) Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phương tiện sử dụng phục vụ quản lý nhà
nước về ATTP; (3) Công tác tuyên truyền c