Thực trạng dạy, học các môn lí luận chính trị cho sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2017-2018 và một số yếu tố liên quan

The article presents the situation of teaching political theories at Hanoi Medical University in the academic year 2017-2018 and points out some related factors affecting the quality of teaching these modules at the university. The analysis of this article is the basis for proposing solutions to encourage the interest of students in studying the political theories and also improve effectiveness of teaching these modules at the university in current period.

pdf5 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 707 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng dạy, học các môn lí luận chính trị cho sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2017-2018 và một số yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3 61 THỰC TRẠNG DẠY, HỌC CÁC MÔN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2017-2018 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Trương Thị Thanh Quý - Trường Đại học Y Hà Nội Ngày nhận bài: 06/04/2018; ngày sửa chữa: 09/04/2018; ngày duyệt đăng: 26/04/2018. Abstract: The article presents the situation of teaching political theories at Hanoi Medical University in the academic year 2017-2018 and points out some related factors affecting the quality of teaching these modules at the university. The analysis of this article is the basis for proposing solutions to encourage the interest of students in studying the political theories and also improve effectiveness of teaching these modules at the university in current period. Keywords: Interest, political theory, students, Hanoi Medical University. 1. Mở đầu Học tập các môn Lí luận chính trị là một nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo ở trường đại học, cao đẳng [1] trong cả nước nói chung, Trường Đại học Y Hà Nội nói riêng. Song thực tế, hầu như sinh viên (SV) đều không hứng thú và rất ngại học các môn Lí luận chính trị. Việc áp dụng phương pháp truyền thống ở các trường trong giảng dạy các môn Lí luận chính trị vẫn còn cao [2]. Một số giảng viên ở các trường được khảo sát trong đề tài bước đầu đã có vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực nhưng chưa nhiều và kết quả thu được còn thấp: 25,7% SV hứng thú với môn học; 20,7% SV học đối phó; 8,3% SV chán nản; 45,3% SV trả lời phân vân khi được hỏi [3]. Mặc dù ở Trường Đại học Y Hà Nội, thời lượng từng phân môn thuộc các môn Lí luận chính trị cũng được áp dụng theo quy chế của Bộ GD-ĐT (cho các trường không chuyên), cụ thể: Môn Những nguyên lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin gồm hai học phần (tổng 75 tiết); môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (45 tiết); môn Tư tưởng Hồ Chí Minh (30 tiết). Nhưng mục tiêu của Trường Đại học Y Hà Nội là đào tạo những người thầy thuốc không những giỏi về y nghiệp mà còn sáng về y đức, nên việc nâng cao chất lượng dạy, học các môn Lí luận chính trị là cần thiết. Cho đến nay, chưa có một đề tài nào nghiên cứu về thực trạng dạy và học các môn này ở Trường Đại học Y Hà Nội để chỉ ra được những yếu tố liên quan đến chất lượng học tập. Hoạt động giảng dạy của giảng viên là yếu tố quan trọng tạo hứng thú trong việc học tập các môn Lí luận chính trị [4] và góp phần hình thành cũng như xây dựng nhân cách cho SV, nhất là đối với SV ngành Y - người thầy thuốc trong tương lai. Đây là vấn đề cần thiết, cấp bách, mang tính thực tiễn [5]. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng dạy, học các môn Lí luận chính trị tại Trường Đại học Y Hà Nội năm 2017- 2018 và một số yếu tố liên quan”. 2. Nội dung, kết quả nghiên cứu 2.1. Đối tượng và phương pháp 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu SV năm thứ 4 của Trường Đại học Y Hà Nội đã hoàn thành các học phần lí luận chính trị và đang ôn tập để thi tốt nghiệp các môn Lí luận chính trị năm học 2017-2018. 2.1.2. Phương pháp nghiên cứu: - Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang. - Cỡ mẫu nghiên cứu và phương pháp chọn mẫu: Dựa trên kết quả nghiên cứu của Trần Văn Hiếu [3], tỉ lệ SV hứng thú với môn học các môn Lí luận chính trị là 25,7%, như vậy, với p= 0,257, tính cỡ mẫu theo công thức ước lượng mô tả một tỉ lệ, n = Z2(1-α/2)x 𝑝.𝑞 (ε.p)2 ε: là sai số tuyệt đối, trong nghiên cứu này chọn bằng 19,8% của p α: mức ý nghĩa thống kê (chọn α = 0,05) Z2(1-α/2) tra theo bảng tính Z = 1,96. Dự phòng là 10%, Tính được cỡ mẫu n = 312. Cách chọn mẫu định lượng: Chọn SV hệ Bác sĩ đa khoa (BSĐK) và Cử nhân điều dưỡng (CNĐD) đang ôn thi tốt nghiệp môn Lí luận chính trị theo tỉ lệ: TT Hệ Tổng số SV Số SV chọn phỏng vấn 1 BSĐK 546 250 2 CNĐD 108 62 Tổng 654 312 * Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng giảng dạy, học các môn Lí luận chính trị tại Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2017-2018 và những yếu tố liên quan, sử dụng thang đo Likert với 5 mức độ: Rất không đồng ý/ không đồng ý/ không có ý kiến/ đồng ý/ rất đồng ý. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3 62 Xử lí số liệu: Bộ công cụ được tiến hành tại thực địa, đánh giá và điều chỉnh trước khi khảo sát. Số liệu sau khi thu nhập sẽ được sàng lọc, loại bỏ các phiếu không đạt yêu cầu. Các câu hỏi trong phiếu điều tra được gán thành các mã nhập. Số liệu sẽ được nhập theo bảng mã và được phân tích bởi phần mềm Excel. Sau khi gán nhãn và nhập toàn bộ số liệu của phiếu điều tra vào phần mềm sẽ sử dụng phương pháp thống kê mô tả tính toán tần suất, tỉ lệ % của các biến số trong phiếu điều tra. 2.1.3. Đạo đức nghiên cứu SV được giải thích rõ về mục đích của nghiên cứu, tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Phiếu tự điền khuyết danh, đảm bảo bí mật cá nhân của người trả lời. SV có thể dừng phiếu nếu không muốn tiếp tục tham gia. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu tiến hành khảo sát trên 312 đối tượng. Trong đó, đối tượng nghiên cứu thuộc nhóm SV năm thứ 4 khối ngành BSĐK gồm 250 SV (80,1%) và khối ngành CNĐD 62 SV (19,9%). Tỉ lệ nam, nữ trong nghiên cứu lần lượt là 60,3% và 39,7%. 2.2.2. Thực trạng dạy và học các môn Lí luận chính trị tại Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2017-2018 Bảng 1. Mức độ phù hợp về phương pháp giảng dạy của giảng viên Khối ngành Mức độ BSĐK CNĐD Chung P n % N % N % Rất không phù hợp 2 0,8 1 1,6 3 1,0 p>0,05* Không phù hợp 52 20,8 13 21,0 65 20,8 Bình thường/ phân vân 5 2,0 0 0 5 1,6 Phù hợp 163 65,2 44 71,0 207 66,4 Rất phù hợp 28 11,2 4 6,4 32 10,2 Tổng 250 100 62 100 312 100 *Fisher’s exact test Nghiên cứu theo các tiêu chí đánh giá về bài giảng lí thuyết của các môn Lí luận chính trị, ta thấy đa số các SV đều đồng ý với các tiêu chí về bài giảng của giảng viên. Cụ thể: Mục tiêu bài giảng rõ ràng, phù hợp (81,7%); Nội dung bài giảng cập nhật và mở rộng (78,5%); Thời lượng giảng lí thuyết phù hợp (81,7%); Phương tiện, công cụ, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy hợp lí với tỉ lệ lần lượt là 84,3%. Đánh giá của đối tượng nghiên cứu về tài liệu học tập và tham khảo: Biểu đồ. Đánh giá của đối tượng nghiên cứu về tài liệu học tập và tham khảo của các môn Lí luận chính trị Biểu đồ trên cho thấy, phần lớn đối tượng nghiên cứu đánh giá tài liệu học tập và tài liệu tham khảo là phù hợp 80,8%, còn lại 19,2% cho rằng không phù hợp. Bảng 2. Đánh giá mức độ hứng thú của đối tượng đối với các môn học Lí luận chính trị Mức độ hứng thú về các môn học BSĐK CNĐD Chung p N Tỉ lệ (%) N Tỉ lệ (%) N Tỉ lệ (%) Rất không hứng thú 1 0,4 1 1,6 2 0,6 p<0,05* Không hứng thú 34 13,6 6 9, 40 12,8 Phân vân 20 8,0 4 6,4 24 7,7 Hứng thú 139 55,6 46 74,2 185 59,3 Rất hứng thú 56 22,4 5 8,1 61 19,6 *Fisher’s exact test Kết quả học tập của đối tượng nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ thi qua môn của SV là 80,5%, tỉ lệ thi lại là 19,6%. Ở đối tượng Y4 BSĐKtỉ lệ thi qua môn chiếm 82% (205/250 SV), tỉ lệ thi lại là 18%. Ở đối tượng Y4 CNĐD, tỉ lệ thi qua môn là 74,2% (46/62 SV), còn lại 25,8% là thi lại. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Số lượt SV thi lại các môn Lí luận chính trị cho thấy, môn học có nhiều SV thi lại nhất là môn Nguyên lí 1 (26 SV), môn học có ít SV thi lại nhất là Nguyên lí 2 (12 SV). Số lượng SV thi lại 2 môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh gần tương đương nhau, với số lượng SV lần lượt là 18 và 19 SV. Bảng 3. Nhu cầu tương tác, thảo luận giữa các môn học Tăng thời lượng thảo luận, tương tác BSĐK CNĐD Chung P N % n % N % Rất không cần thiết 1 0,4 1 1,6 2 0,6 p>0,05* 19.2% 80.8% Không phù hợp Phù hợp VJE Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3 63 Không cần thiết 26 10,4 6 9,7 32 10,3 Phân vân 14 5,6 2 3,2 16 5,1 Cần thiết 153 61,2 4 74,2 199 63,8 Rất cần thiết 56 22,4 7 11,3 63 20,2 Nhu cầu của đối tượng về phương pháp giảng dạy các môn học Lí luận chính trị: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu của SV về các phương pháp giảng dạy các môn Lí luận chính trị như sau: Thảo luận trên lớp và Thuyết trình kết hợp với giáo án điện tử được SV lựa chọn nhiều nhất, chiếm 87,5% số SV. Phương pháp thuyết trình cao thứ hai chiếm 83,3%, phương pháp nêu vấn đề là 80,7%, thảo luận nhóm 74,7% và kết hợp tất cả các phương pháp là 72,1%. 2.3. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng dạy và học các môn Lí luận chính trị tại Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2017-2018 Bảng 4. Một số yếu tố liên quan đến hứng thú đối với các môn Lí luận chính trị Yếu tố liên quan Hứng thú với các môn học Lí luận chính trị OR (95% CI) Giới: - Nam 0,74 - Nữ (0,43-1,29) Ngành học: - BSĐK 1,3 - CNĐD (0,64-2,69) Phương pháp giảng dạy: - Chưa phù hợp 10,9*** - Phù hợp (5,41-22,21) Chất lượng bài giảng: - Chưa tốt 15,2*** - Tốt (6,87- 32,62) Kết quả học tập: - Thi lại 7,0*** - Thi qua môn (3,60- 13,76) *** p<0,001 Bảng 5. Một số yếu tố liên quan đến kết quả học tập các môn Lí luận chính trị Yếu tố liên quan Kết quả học tập OR (95%CI) Giới: - Nam 0,4** - Nữ (0,23-0,73) Khối ngành: - BSĐK 0,6 - CNĐD (0,33-1,22) **p<0,01 2.4. Vấn đề bàn luận Kết quả nghiên cứu cho thấy 76,6% đối tượng nghiên cứu cho rằng phương pháp giảng của giảng viên là phù hợp và rất phù hợp, trong đó SV Y4 khối BSĐK chiếm 76,4%; CNĐD chiếm 71%; 20,8% đối tượng nghiên cứu cho rằng phương pháp giảng của giảng viên không phù hợp. Có thể thấy hầu hết SV đã có đánh giá tích cực với phương pháp giảng dạy các môn Lí luận chính trị tại trường. Phương pháp giảng dạy tích cực cũng được thể hiện qua kết quả đánh giá các tiêu chí trong bài giảng lí thuyết của các môn Lí luận chính trị [3]. Đa số SV đều đồng ý với các tiêu chí về bài giảng của giảng viên. Cụ thể: Mục tiêu bài giảng rõ ràng, phù hợp (81,7%); Nội dung bài giảng cập nhật và mở rộng (78,5%); Thời lượng giảng lí thuyết phù hợp (81,7%); Phương tiện, công cụ, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy hợp lí với tỉ lệ lần lượt là 84,3%; 80,8% SV đánh giá tài liệu học tập, tài liệu tham khảo trong quá trình học là phù hợp. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu thấy hứng thú chiếm 59,3%; 19,6% SV tham gia nghiên cứu rất hứng thú với các môn học. 12,8% SV không hứng thú và chỉ có 0,6% SV rất không hứng thú với các môn học Lí luận chính trị. Kết quả này phù hợp với kết quả đánh giá chất lượng bài giảng và phương pháp giảng dạy của giảng viên. Tỉ lệ SV có hứng thú khi học các môn Lí luận chính trị khá cao (78,9%), trong đó có đến 19,6% SV rất hứng thú khi học các môn này. Chúng tôi tìm ra mối liên hệ giữa sự hứng thú học tập và phương pháp giảng dạy của giảng viên, tỉ lệ hứng thú trong nhóm cho rằng phương pháp giảng dạy là phù hợp cao gấp 10,9 lần so với nhóm cho rằng phương pháp giảng dạy là chưa phù hợp (p<0,001; OR: 5,41-22,21). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ngoài ra, sự hứng thú học tập cũng có mối liên quan với nội dung bài giảng, đối với nhóm đối tượng cho rằng nội dung bài giảng tốt so với nhóm đối tượng cho rằng chưa tốt sẽ cao gấp 15,2 lần (OR: 6,87- 32,62). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại Trường Đại học Y Hà Nội với mức độ hứng thú của SV đối với các môn học này là 78,9% là rất cao so với 25,7% tỉ lệ SV hứng thú đối với các môn này tại Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học An Giang, Trường Đại học Đồng Tháp. Sự khác nhau về tỉ lệ hứng thú này theo chúng tôi là bởi tại Trường Đại học Y, đội ngũ giảng viên đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy, ở mỗi môn học, đặc biệt là môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ môn Lí VJE Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3 64 luận chính trị luôn duy trì một đến hai buổi học để đi thực tế, tham quan tại Bảo tàng Hồ Chí Minh và Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam; Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỉ lệ SV Y4 CNĐD hứng thú với các môn học Lí luận chính trị là 74,2% cao hơn so với BSĐK (55,6%). 13,6% SV Y4 BSĐK không hứng thú với các môn học Lí luận chính trị cao hơn với CNĐD (9,7%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này có thể giải thích do chương trình học của SV hệ BSĐK nặng hơn SV của hệ CNĐD, SV cho rằng đây là môn học không quan trọng bằng các môn học liên quan đến chuyên ngành. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở tỉ lệ thi qua môn là 80,5% lớn hơn nhiều so với tỉ lệ thi lại là 19,6%. BSĐK Y4 có tỉ lệ thi qua môn chiếm 82% (205/250 SV), tỉ lệ thi lại là 18% (45/205 SV). Y4 CNĐD thì tỉ lệ thi qua môn là 74,2%, 25,8% là thi lại. Mặc dù có hứng thú học tập các môn Lí luận chính trị thấp hơn nhưng kết quả học tập lại cao hơn so với SV hệ CNĐD. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Nghiên cứu cho thấy môn học có nhiều SV thi lại nhất là môn Nguyên lí 1, trên thực tế môn học Nguyên lí 1 là môn học đầu tiên các bạn SV được tiếp xúc với các môn Lí luận chính trị nên chưa tìm ra được cách học phù hợp cũng như hứng thú với môn học này. Kết quả nghiên cứu của Trần Văn Hiếu năm 2011 về thực trạng dạy và học các môn Lí luận chính trị (khảo sát ở Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Đồng Tháp và Trường Đại học An Giang) trên 1.909 SV cho thấy 22,6% trả lời do nội dung môn học khô khan, trừu tượng; 66,2% do phương pháp dạy của giáo viên không hay; 7,8% do lớp học quá đông và 3,4% do SV xác định đây không phải là môn học quan trọng [3]. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan giữa kết quả học tập với một số yếu tố: Những SV thi qua môn cũng có mức độ hứng thú cao hơn 7 lần với nhóm SV phải thi lại các môn (95%CI: 3,6-13,76). Nhóm SV nữ có tỉ lệ kết quả học tập tốt cao gấp 0,4 lần so với nhóm nam (p<0,001; OR: 0,23-0,73). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu của SV về các phương pháp giảng dạy các môn Lí luận chính trị cao nhất ở nhóm thảo luận trên lớp và thuyết trình kết hợp giáo án điện tử, tiếp đến là thuyết trình, nêu vấn đề và thảo luận nhóm. 72,1% SV lựa chọn tích hợp tất cả các phương pháp. Thể hiện nhu cầu của SV, các phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học [6]. Kết quả cho thấy nhu cầu của SV trong việc học tập tích cực đối với các môn học lí luận chính trị [7]. Khi giáo dục Việt Nam đang chuyển từ tiếp cận kiến thức sang tiếp cận năng lực, khi về bản chất yêu cầu của việc học tập lí luận chính trị là biết vận dụng những vấn đề lí luận đó vào thực tiễn cuộc sống và công việc [8],việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học bên cạnh phương pháp thuyết trình là một đòi hỏi tất yếu [9]. Giảng viên phải nắm rõ mục tiêu, nội dung của từng phần giảng cũng như đối tượng SV để có thể lựa chọn những phương pháp phù hợp và hiệu quả nhất [10]. 3. Kết luận và khuyến nghị Qua nghiên cứu tiến hành trên 312 SV hệ BSĐK và CNĐD năm thứ 4 đang ôn thi tốt nghiệp môn Lí luận chính trị năm 2017 tại Trường Đại học Y Hà Nội về thực trạng dạy và học các môn học Lí luận chính trị, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Thực trạng dạy và học các môn học Lí luận chính trị: Tỉ lệ SV cho rằng phương pháp giảng dạy của giảng viên là phù hợp đạt mức cao và trong các tiêu chí về bài giảng lí thuyết trên lớp phần lớn đối tượng tham gia đều có lựa chọn tích cực. Đa số SV có hứng thú hoặc rất hứng thú với các môn học Lí luận chính trị (59,3%; 19,6%). Kết quả học tập, SV thi qua các môn học Lí luận chính trị chiếm tỉ lệ cao. Tuy nhiên, vẫn còn 19,6 % SV từng thi lại ít nhất 1 môn học Lí luận chính trị. - Xác định một số yếu tố liên quan đến thực trạng dạy và học các môn học Lí luận chính trị: Mức độ hứng thú học tập với các môn học của SV có mối liên quan với phương pháp giảng dạy của giảng viên, mức độ phù hợp của bài giảng và kết quả học tập của SV. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Có mối liên quan giữa kết quả học tập của SV với yếu tố giới tính. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,01. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị sau: - Đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Trong điều kiện giáo dục đổi mới, không có một phương pháp giảng dạy nào là tối ưu trong việc giảng dạy các môn Lí luận chính trị. Vì vậy, giảng viên cần từng bước chuyển từ chỉ sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức sang tích hợp nhiều phương pháp và phù hợp với từng môn học, từng đối tượng. Cần có định hướng, kế hoạch đổi mới khoa học và đúng đắn. - Nâng cao chuyên môn, kĩ năng sư phạm của đội ngũ giảng viên để đáp ứng những thay đổi trong giảng dạy góp phần tạo nên những bài giảng hay và đạt chất lượng tốt tăng thêm hứng thú của SV với các môn học Lí luận chính trị, nâng cao kết quả học tập của SV ngày càng cao hơn, giảm tỉ lệ thi/học lại. - Tăng thời lượng thảo luận, tương tác giữa SV và giảng viên trong từng môn học. Khuyến khích được sự VJE Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 61-64; bìa 3 chủ động trong học tập, tiếp thu kiến thức và làm trung tâm của quá trình đào tạo, giáo dục. - Dạy và học là quá trình 2 chiều. Vì vậy ngoài việc thực hiện nghiên cứu trên đối tượng SV, cần có thêm nghiên cứu khác trên đối tượng giảng viên để có thể đánh giá khách quan về thực trạng dạy và học các môn Lí luận chính trị. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Thanh Thảo (2017). Nhu cầu và điều kiện học tập lí luận chính trị của sinh viên các trường đại học hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tr 3. [2] Nguyễn Thị Thu Huyền (2017). Xây dựng đội ngũ giảng viên lí luận chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước. Nguồn: tuyengiao.vn. [3] Trần Văn Hiếu (2011). Thực trạng dạy và học các môn Lí luận chính trị - Khảo sát ở Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Đồng Tháp và Trường Đại học An Giang. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, số 19a, tr 79-80. [4] Võ Minh Hùng (2015). Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn Lí luận chính trị của các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Bộ GD-ĐT, Hội thảo khoa học Quốc gia “Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lí luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng”, tr 3. [5] Đinh Thanh Xuân (2015). Giảng dạy các môn lí luận chính trị trong các trường đại học hiện nay. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 12, tr 98. [6] Nguyễn Quang Trung (2015). Phát huy vai trò đội ngũ giảng viên trong đổi mới giảng dạy các môn Lí luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 146. [7] Trần Huy Ngọc (2016). Đổi mới phương pháp giáo dục lí luận chính trị cho sinh viên các trường đại học khu vực trung du, miền núi phía Bắc nước ta hiện nay (Qua khảo sát Đại học Thái Nguyên và Trường Đại học Tây Bắc). Nguồn: qlkh.tnu.vn. [8] Đinh Thế Định (2015). Giảng dạy các môn Lí luận chính trị ở các trường đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nguồn: khoagdct.vinhuni.edu.vn. [9] Hà Thị Thùy Dương (2017). Đổi mới phương pháp giảng dạy lí luận chính trị ở các trường đại học của Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Đồng Nai, số 5, tr 105. [10] Ngô Quế Lân (2016). Tăng cường sự gắn kết của công tác giáo dục lí luận chính trị với các hoạt động đoàn thể và rèn luyện kĩ năng xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Hội thảo khoa học Nghiên cứu và giảng dạy cá
Tài liệu liên quan