Như chúng ta đã biết,sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ,Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)quyết định đưa Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội(CNXH ) bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật của chúng ta lúc bấy giờ còn rất lạc hậu,lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên không phù hợp với CNXH
15 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và điều kiện thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết,sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ,Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)quyết định đưa Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội(CNXH ) bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật của chúng ta lúc bấy giờ còn rất lạc hậu,lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên không phù hợp với CNXH.Chính vì thế ,đại hội đảng toàn quốc lần thứ III đã xác định công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CNH_HĐH) là vụ trọng tâm hàng đầu của thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH.Nhưng vấn đề đặt ra là xây dựng một chiến lược CNH_HĐH phù hợp với từng thời kì phát triển của nền kinh tế.Từ năm 1986 ,Đảng và Nhà nước đã đề xuất triển khai chiến lược đổi mới ,dành nhiều nguồn lực để thực hiện CNH_HĐH một cách nhanh chóng và hiểu quả.Trước sức ép của toàn cầu hoá và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như trước những đòi hỏi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh nhiều thách thức mới đang nảy sinh ,đòi hỏi quá trình CNH_HDH phải được đẩy mạnh hơn nữa .Chính vì thế ,đại hội đảng IX đã đưa ra một chiến lược phát triển kinh tế mới: “Phát triển kinh tế ,CNH_HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Con đường CNH_HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước,vừa phải có bước tuần tự vừa phải có bước nhảy vọt .Phát huy lợi thế của đất nước,tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến,đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn,ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,từng bước phát triển kinh tế tri thức” . Nhưng muốn đi được con đường mà đảng ta đã chọn phải có những giải pháp đặc biệt.Theo đầu đề thì dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề đó.
Nội dung chính
I/.Một số vấn đề cơ bản về CNH_HĐH
1. Khái niệm CNH_HĐH :
Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm CHH_HĐH nói riêng đều mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và của khoa học công nghệ .Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Để hiểu được khái niệm CNH_HĐH chúng ta phải đi từ hai cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật (KHKT) mà lịch sử đã trải qua và đặt nó trong bối cảnh của thời đại ngày nay để vận dụng vào công cuộc phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển.Cuộc cách mạng KHKT lần thứ nhất diễn ra đầu tiên ở Anh với mục tiêu cơ khí hoá gắn với bước chuyển từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp .Khái niệm công nghiệp hoá(CNH) gắn với cuộc cách mạng này .Lúc bấy giờ CNH được hiểu là quá trình biến một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp , là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc .Sau cuộc cách mạng KHKT lần thứ nhất nhân loại bước lên cuộc cách mạng khoa học kĩthuật_công nghệ(KHKT_CN)lần hai vào những năm 40 của thế kỉ 20 và nó xuất hiện ở những nước đã trải qua cách mạng lần thứ nhất.Mục tiêu của cuộc cách mạng KHKT_CN lần này là tiếp cận kinh tế tri thức, hiện đại hoá các trang thiết bị, máy móc,tăng cường tự động hoá trong sản xuất, có sự giao thoa giữa văn minh công nghiệp và văn hậu công nghiệp.Khái niệm hiện đại hoá(HĐH) gắn với cuộc cách mạng này.HĐH được hiểu là quá trình chuyển từ công cụ cơ khí sang công cụ tự động và sử dụng rộng rãi robot ,chuyển từ năng lượng truyền thống sang năng lượng hạt nhân ,chuyển từ vật tư có nguồn gốc tự nhiên sang vật tư có nguồn gốc nhân tạo là chủ yếu,công nghệ sinh học nhất là công nghệ gen được tăng cường nghiên cứu và vận dụng vào thực tế ,bên cạnh đó là phát triển công nghệ kĩ thuật cao . Như vậy HĐH là khái niệm dùng để chỉ sự biến đổi trình độ kĩ thuật công nghệ, trình độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia ngang tầm với trình độ trang bị kĩ thuật công nghệ mà thế giới đã đạt được.
Trong thời đại ngày nay, một nước đi sau khi thực hiện CNH phải gắn liền với HĐH.Và để có thể làm được điều đó chúng ta phải xây dựng được một khái niệm về CNH_HĐH .Từ 2 khái niệm trên và từ thực tiễn tiến hành CNH_HĐH ở các nước thì trong thời đại ngày nay đã xuất hiện khái niệm “kép “ CNH_HĐH .Thuật ngữ này được đưa ra từ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá VI và đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ĐCSVN : CNH_HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh ,dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ ,phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học _công nghệ tạo ra năng suất xã hội cao.
2/Tất yếu khách quan phải thực hiện CNH_HĐH:
Thứ nhất là do yêu cầu của việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH.Vì cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp lớn hiện đại ,có cơ cấu kinh tế hợp lý ,trình độ xã hội hoá cao dựa trên nền tảng của khoa học công nghệ tiên tiến ,được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân ,dưới sự thống trị của quan hệ sản xuất XHCN.
Thứ hai do yêu cầu phải thực hiện mục tiêu nâng cao năng suất lao động _ cái bảo đảm cho CNXH chiến thắng các xã hội trước nó và để nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội .C.Mác:” Phân tích cho đến cùng năng suất lao dộng là cái cơ bản nhất ,quyết định nhất ,sở dĩ chủ nghĩa tư bản (CNTB) chiến thắng được chủ nghĩa phong kiến(CNPK)vì CNTB tạo ra một năng suất lao động cao hơn CNPK ; do đó CNXH muốn chiến thắng chủ nghĩa tư bản thì CNXH phải tạo ra một năng suất lao động cao hơn nhiều so với CNTB .Đó là điểm chính yếu “(tác phẩm sáng kiến vĩ đại _Lênin toàn tập ,tập 44)
Thứ ba là do hiện nay trên thế giới đang diễn ra xu thế toàn cầu hoá,hội nhập kinh tế thế giới ,tất cả các nước đều đẩy mạnh nghiên cứu khoa học kĩ thuật,phát triển công nghệ sản xuất để tăng sản lượng ,nâng cao chất lượng sản phẩm,tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và làm chủ thị trường trong nước.Nếu chúng ta không phát triển khoa học kĩ thuật thì chúng ta không thể nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm điều đó cũng đồng nghĩa với việc sản phẩm của chúng ta không thể cạnh tranh được với sản phẩm của các nước khác trên thị trường quốc tế thậm chí cả thị trường trong nước.
Thứ tư là đối với nước ta _một nước có xuất phát điểm nông nghiệp lạc hậu , vừa trải qua chiến tranh lại chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua CNTB thì CNH_HĐH lại càng đóng vai trò quan trọng hàng đầu.Nó sẽ giúp nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng như về khoa học kĩ thuật _công nghệ so với các nước đi trước ,rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước đó .Đồng thời giúp nước ta không bị chệch hướng XHCN trong quá trình đổi mơí và phát triển kinh tế .
Như vậy CNH_HĐH là một chiến lược kinh tế mang tính khách quan đối với tất cả các quốc gia khi chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp Đặc biệt là đối với một nước như nước ta thì nó càng giữ vị trí quan trọng hàng đầu.
3/Tác dụng của CNH_HĐH:
Ngay từ khi bước vào xây dựng CNXH Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối CNH_HĐH và coi CNH_HĐH là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên CNXH .Phân tích những tác dụng cơ bản của CNH_HĐH đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của CNH_HĐH trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Nước ta đi lên CNXH với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu ,bình quân ruộng đất thấp ,80% dân số làm trong nông nghiệp ,dân cư nông thôn có mức thu nhập thấp ,sức mua hạn chế .Vì vậy CNH_HĐH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kĩ thuật và khoa học công nghệ ,thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiểu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng suất lao động thúc đẩy GDP tăng nhanh cùng đáp ứng các yêu cầu : nâng cao năng lực tích luỹ vốn tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân , đảm bảo CNXH chiến thắng các xã hội trước , thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ,bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái .
CNH_HĐH tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại góp phần tăng cường củng cố và phát triển khối liên minh công nông và tri thức trong sự nghiệp cách mạng XHCH.Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiểu quả của bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước.
Quá trình CNH_HĐH tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại để làm biến đổi về chất lượng sản xuất nhờ đó mà hình thành hệ tư tưởng XHCN, hình thành con người mới XHCN, hình thành một nền văn hoá mới XHCN_ một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quá trình CNH_HĐH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự nghiệp CNH_HĐH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
CNH_HĐH không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà nó còn đảm bảo thực hiện sự kết hợp tốt kinh tế với quốc phòng an ninh, đối phó có hiểu quả với âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
Thành tựu CNH_HĐH tạo tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế _chính trị, văn hoá xã hội ,quốc phòng và an ninh .Thành công của sự nghiệp CNH HĐH nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường XHCN mà đảng và nhân dân ta đã lựa chọn .Chính vì thế mà CNH_HĐH được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam .
B/Mô hình CNH trong lịch sử và sự lựa chọn của Đảng ta:
1/Giới thiệu mô hình CNH trong lịch sử:
ạCNH tuần tự :thực hiện ở các nước đi trước (Anh ,Pháp,Đức ,Mỹ)vì các nước này làm CNH trong bối cảnh cũ chưa có kinh nghiệm của các nước đi trước ,cách làm cổ điển ,thời gian kéo dài hàng trăm năm.
ạCNH rút ngắn: rút ngắn được đáng kể về mặt thời gian, có 2 mô hình:
-CNHrút ngắn cổ điển: Liên Xô (thời gian ngắn 16 năm) Nhật (thời gian ngắn 45 năm) bối cảnh cũ, cách làm cổ điển.
-CNH rút ngắn hiên đại: thực hiện trong bối cảnh hiện đại, NIC thời gian ngắn hơn nhiều (30 năm), ASEAN thời gian ngắn hơn rất nhiều (dự báo 25 năm).
2/Sự lựa chọn của đảng ta: “Con đường CNH_HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước, vừa có những bước tuần tự vừa có bước nhẩy vọt “(Đại hội Đảng IX)
ạCần:Như chúng ta đã biết việc tiến hành CNH_HĐH ở nước ta là một tất yếu khách quan ,nhưng việc thực hiện nó theo con đường nào mới thực sự là quan trọng.Tại đại hội đảng IX ,đảng ta đã đưa ra chiến lược thực hiện CNH_HĐH theo con đường rút ngắn so với các nước ,bỏ qua một hoặc một số bước.Ta có thể thấy đó là một việc làm cần thiết bởi nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu ,cơ sở vật chất hầu như không có gì nếu có thì cũng lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước khác.Vì thế nếu chúng ta đi từng bước thì chúng ta mãi mãi là “kẻ đi sau”,chỉ biết dùng lại những gì đã có trên thế giới mà không có sáng tạo của riêng mình và sẽ không bao giờ đuổi kịp các nước trong khu vực chứ chưa nói gì đến các nước phát triển trên thế giới.Nhưng nếu chúng ta bỏ qua quá nhiều bước thì chúng ta sẽ dễ mắc phải tình trạng “chỉ có phần ngọn mà phần gốc rễ thì lại không có”rất dễ phụ thuộc vào các nước khác về công nghệ cơ bản.Hơn nữa trong khuôn cảnh phát triển hiện đại,trong thếgiới toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập phát triển ,không nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế và khoa học công nghệ có nghĩa là phải chịu thua thiệt trong cạnh tranh phát triển ,luôn luôn đóng vai nước”đi theo”trong cuộc đua tranh phát triển,với vị thế “mặc cả “thấp và yếu .Tóm lại quá trình CNH_HĐH ở nước ta phải vừa có bước tuần tự vừa có bước nhẩy vọt .
ạCó thể:Sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Đông Âu,tương quan về sức mạnh trên thế giới có nhiều thay đổi,sự ra tăng sức mạnh của Mỹ,sự nổi lên của Trung Quốc trong khi vị thế của Nga và Nhật Bản bị suy giảm tương đối …Tương quan sức mạnh mới dẫn đến những chiến lược mới.Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và phát triển kinh tế tri thức trở thành xu thế chủ đạo trong thế giới hiện đại,các nước cùng nhau hợp tác phát triển kinh tế.Nhưng hợp tác nhiều hơn thì cạnh tranh cũng quyết liệt hơn ,điều này buộc các nước phải thường xuyên đổi mới các chiến lược kinh tế sao cho phù hợp với tình hình quốc tế.Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh với trình độ ngày càng cao,vì thế các nước đều ra sức nghiên cứu để có thể hiện đại hoá công nghệ trong nước nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế.Chính cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia.Chính vì thế mà những nước đi sau như Việt Nam có thể tận dụng được nguồn vốn bên ngoài để rút ngắn thậm chí bỏ qua quãng đường lâu dài và gian khổ của giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ.Bên cạnh đó là lợi thế về sự sẵn có công nghệ kĩ thuật hiện đại chính là điều kiện thuận lợi căn bản để nước ta có thể tiến nhanh thậm chí tiến thẳng vào kỉ nguyên công nghệ cao theo nguyên lý nhẩy vọt cơ cấu.Hơn nữa với vai trò là một nước đi sau nước ta có thể tranh thủ được nhiều nhất lợi thế so sánh mà sự phân công lao động quốc tế hiện đại có thể dành cho “những nước đi sau”.Không chỉ có vậy ,chúng ta còn có được những bài học kinh nghiệm mà các nước đi trước để lại giúp cho chúng ta tránh khỏi sai lầm khi thực hiện mô hình CNH_HĐH rút ngắn.
C/ Thực trạng và điều kiện thực hiện thành công CNH_HĐH ở nước ta:
1/Thực trạng của quá trình CNH_HĐH ở Việt Nam:
Sau gần 20 năm đổi mới từ năm 1986 đến nay nước ta đã khơi dậy được nguồn lực tiềm ẩn trong nước, khai thác và sử dụng được các nguồn lực từ nước ngoài và đã thu được những thành tựu bước đầu là:
Thứ nhất là CNH_HĐH đã trở thành sự nghiệp của toàn đảng toàn dân toàn xã hội . Nó đã huy động đượcc sức mạnh của toàn dân vào công cuộc xây dựng đất nước.
Thứ hai là CNH_HĐH ở nước ta đã đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong suốt thời kì đổi mới.Trong 10 năm từ năm 1990_2000 GDP tăng 2,07 lần.Trong 5 năm từ 2001_2005 tốc độ tăng trưởng thường xuyên ở mức cao,cụ thể là:
Mức tăng GDP qua các năm (%)
Tính chung trong 5 năm mức tăng GDP bình quân 7,5%.Tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta luôn đạt tốc độ cao nhất so với các nước trong khu vực Đông Nam á và vào vị trí thứ hai trong khu vực Châu á ,sau Trung Quốc.
*Về nông nghiệp :giá trị sản lượng nông nghiệp 4 năm (2001_2004) tăng 4,67%/năm,sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 444kg năm 2000 lên 476 kg năm 2004 .Các loại cây trồng lâu năm như cây ăn quả ,cây công nghiệp tăng nhanh sản lượng cà phê nhân năm 2004 tăng 5,6 lần so với năm 1990;chè gấp 3 lần …Sản xuất nông nghiệp đã chuyển dần theo hướng kinh tế hàng hoá gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu.
*Công nghiệp lấy lại đà tăng tốc, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân trong 5 năm từ năm 2000_2005 đạt 16,5%. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều có mức tăng khá vững chắc như:dầu thô trong 4 năm(2001_2004)có mức tăng 5,4%/năm,thép cán tăng 13,9 lần ,ngành cơ khí tăng bình quân 3 năm (20001_2003)là 17,7%/năm.Các sản phẩm có hàm lượng lao động kĩ thuật cao đạt tốc độ tăng trưởng khá cao như điện tử lắp ráp ô tô ,xe máy sản xuất cấu kiện kim loại …tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu có giá trị .
*Các ngành dịch vụ: giá trị các ngành dịch vụ các năm 2001_2004 tăng bình quân 6,8%/năm .Nhìn chung các ngành dịch vụ phát triển đa dạng ,về cơ bản đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế ,bảo đảm mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu dùng và phục vụ kịp thời nhu cầu đời sống nhân dân. Các ngành dịch vụ tài chính,ngân hàng, bưu chính_viễn thông ,bảo hiểm ,du lịch … phát triển với tốc độ khá và tương đối vững chắc ,bảo đảm từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế.
Thứ ba là kết cấu hạ tầng được xây dựng mới ,cải tạo và nâng cấp khá đồng bộ.Hệ thống giao thông ,mạng lưới bưu chính_viễn thông ,mạng lưới điện hệ thống thuỷ lợi ,đê điều ,hệ thống cấp và thoát nước cho các đô thị ,khu công nghiệp ;hệ thống trường học từ mẫu giáo nhà trẻ đến đại học;các cơ sở y tế từ tuyến xã đến trung ương ;hệ thống phát thanh truyền hình nhà ở cho dân cư …đều được nâng cấp về chất lượng và đáp ứng nhu cầu cơ bản của dân cư.
Thứ tư là cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng CNH_HĐH, giảm dần tỷ trong nông_lâm nghiệp và thuỷ sản ,tăng tỷ trong công nghiệp_xây dựng và ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP:
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Chung nền kinh tế
100%
100%
100%
100%
100%
Kv công nghiệp ,xây dựng
38,13%
38,49%
39,47%
40,21%
41,03%
Kv nông_lâm thuỷ sản
23,24%
23,03%
22,54%
21,89%
20,69%
Kv dịch vụ
38,63%
38,48%
37,99%
37,81%
38,08%
*Cơ cấu theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng đa dang hoá các loại hình sở hữu và đa dạng hoá các thành phần kinh tế từ chỗ chỉ có 2 thành phần quốc doanh và tập thể sang cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ,trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.Chính điều này đã giúp chúng ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, hình thành bước đầu nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta.
*Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ bước đầu có sự chuyển biến theo hướng khai thác thế mạnh từng vùng ,hình thành các vùng phát triển trọng điểm.Các vùng kinh tế khó khăn chậm phát triển cũng có những tiến bộ đáng khích lệ,mức sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên đáng kể.Đô thị đã được phát triển về số lượng và chất lượng .Nhiều đô thị đang chuyển dần từ chức năng hành chính thuần tuý sang cả chức năng kinh tế theo mức độ khác nhau .
Thứ năm là chính sách “mở cửa và hội nhập” thành công đã góp phần giúp nước ta xây dựng được một nền kinh tế tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,phá được thế cấm vận , mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam,tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 ước đạt 32,233 triệu USD,tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trong GDP đạt trên 60%.Ngoài ra, nguồn vốn ODA được sử dụng vào các mục tiêu phát triển ưu tiên , trước hết là kết cấu hạ tầng.Điều đáng mừng là cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam,mấy năm gần đây đã xuất hiện việc đầu tư vốn của Việt Nam ra nước ngoài (Nga,Lào,Campuchia).
Thứ sáu là đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt .Tình trạng đói nghèo giảm đáng kể ,không còn hộ đói.Sự nghiệp giáo dục,y tế ,văn hoá cũng được cải thiện khá nhiều ,90% dân số được phục vụ dịch vụ y tế,tuổi thọ bình quân tăng lên 71,3 tuổi vào năm 2005,96% lực lượng lao động biết chữ.
Thứ bẩy là do mục tiêu CNH gắn với HĐH,với đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ,tranh thủ thời cơ tiếp thu công nghệ cao ,trong nền kinh tế và xã hội nước ta đã hình thành những yếu tố quan trọng của kinh tế tri thức :sự mở rộng quy mô chưa từng có của ngành giáo dục ,đào tạo _tuy chất lượng chưa cao _định hướng về một xã hội học tập ;kết cấu hạ tầng thông tin cũng không ngừng phát triển ;tỷ lệ dân sử dụng Internet ngày càng tăng ;việc tiếp thu công nghệ cao trong các ngành kinh tế đã dược chú trọng hơn ,số lao động trí thức tăng .Các yếu tố này làm cho CNH nhanh hơn và gắn với HĐH.
Những thành tựu cơ bản bước đầu của quá trình CNH_HĐH đất nước đã thể hiện đường lối đúng đắn của đảng ta, song cũng còn tồn tại không ít những bất cập hạn chế mà chúng ta phải khắc phục nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng hướng .Những hạn chế đó là:
-Tuy nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng chưa bền vững, hiệu quả chưa cao.
-Trong sản xuất các công ty Việt Nam vẫn thiên về số lượng hơn là chất lượng nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm do Việt Nam sản xuất còn kém không thể cạnh tranh được với sản phẩm của nước ngoài ngay trong “sân nhà”chứ chưa nói đến thị trường quốc tế.
-Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa hiệu quả và không đều giữa các ngành, địa phương và vùng.
-Trong công nghiệp, hạn chế lớn nhất là hiểu quả sản xuất chưa cao.Chất lượng sản phẩ