Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế

Chương I : Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong trong kinh doanh du lịch quốc tế. Chương II : Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế ở Công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế Hà nội. Chương III : Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty TIC – Hà Nội.

doc97 trang | Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 1819 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài : Ngày nay, cùng với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá, du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang trở thành một nghành dịch vụ quan trọng ,chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong GDP của mỗi quốc gia. Đây là hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận có triển vọng phát triển trong xã hội hiện đại. Những năm trước đây, nhất là từ khi đất nước thống nhất, công ty du lịch công đoàn Việt Nam ( VTUT Co) đã tổ chức cho công nhân viên chức và người lao động đi nghỉ ngơi, tham qua du lịch mỗi năm một nhiều. Đi theo tuyến du lịch công đoàn, khách du lịch có thể tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công trình kinh tế, văn hoá của đất nước và trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động công đoàn, những kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Công ty còn tiến hành các hoạt động phục vụ đoàn viên và lao động du lịch ở bnước ngoài và đón khách du lịch quốc tế vào Việt Nam theo con đường hợp tác và trao đổi du lịch. Tuy nhiên, công tác tổ chức và phục vụ tham quan du lịch vẫn chủ yếu mang tính kiêm nhiệm và bao cấp. Đối với phục vụ chủ yếu là công nhân viên chức, những người lao động có thành tích trong lao động sản xuất được lựa chọn một cách công khai và được hưởng các chế độ ưu đãi của cơ quan xí nghiệp hay ng ân sách bảo hiễm xã hội. Khi chuyển sang kinh doanh trong cơ chế thị trường điều này đã làm cho công ty gặp không ít khó khăn. Thứ nhất : Công ty chưa quen với việc tổ chức và phục vụ tham quan du lịch với tư cách là một hoạt động kinh doanh. Vì vậy, công tác tổ chức phục vụ còn mang tính chất trì trệ, nhất là về hệ thống nhà nghỉ và chất lượng phục vụ. Thứ hai : nếu như trước kia, nguồn khách quốc tế đến với công ty chủ yếu là do việc ký kết hợp đồng với các liên đoàn lao động của các nước xã hội chủ nghĩa ( chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ ) thì giờ đâykể từ khi Liên Xô tan rã, nguồn khách này không còn duy trì ổn định như trước nữa, thêm vào đó việc đưa người Việt Nam sang các nước này cũng gặp nhiều khó khăn Thứ ba : Nhận thức được kinh doanh du lịch là một trong các hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả cao vơí chi phí thấp hơn nhiều so với hiệu quả mang lại, không ít các công ty, xí nghiệp thuộc các ngành, ban chức năng khác nhau kể cả khu vực Nhà nước và tư nhân đã xâm nhập vào thị trường kinh doanh du lịch, khai thác một cách tối đa những lợi thế trong lĩnh vực kinh doanh này. Đứng trước những khó khăn trên, hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh lữ hành nói riêng của công ty du lịch công đoàn Việt Nam (nay là công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế) cần phải nhận thức lại công việc đầy triển vọng nhưng lại đang thực hiện thiếu hiệu quả của mình. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích: Để tiến hành nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả của hoạt động du lịch quốc tế của công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (Internation Tourism and Investment Consultancy Company – TIC) tại Hà Nội. Từ đó, đề tài đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động du lịch quốc tế và hiệu qủa kinh doanh du lịch, đáp ứng nhiệm vụ mà Đảng, chính phủ, Tổng liên đoàn lao động việt Nam giao cho cũng như đáp ứng lòng mong mỏi của tập thể ban lãnh đạo công ty là tăng lợi nhuận cho công ty, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên. 2.2. Đối tượng nghiên cứu ; Đề tải tập trung vào phân tích vai trò, vị trí và nội dung của hoạt động du lịch quốc tế trong công ty TIC. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh doanh và làm thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh đó. 2.3. Phạm vi nghiên cứu : Mặc dù Công ty còn có các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trong cả nước như chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, chi nhánh tại Đà Nẵng, Nam Định, Vĩnh Phúc, nhưng do thực tế khách quan cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn chỉ đề cập trong phạm vi hoạt động của công ty TIC tại Hà Nội. 3. Phương pháp nghiên cứu : Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nn trong quá trình nghiên cứu phân tích. Đề tài còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và đầu tư quốc tế. 4. Kết cấu của chuyên đề : Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương: Chương I : Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong trong kinh doanh du lịch quốc tế. Chương II : Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế ở Công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế Hà nội. Chương III : Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty TIC – Hà Nội. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Anh Minh và tập thể cán bộ trong công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành bài viết này!. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH QUỐC TẾ VÀ HIỆU QUẢ TRONG KINH DOANH DU LỊCH QUỐC TẾ. I. LÝ LUẬN CHUNG VÊ DU LỊCH QUỐC TẾ. 1. Khái niệm về du lịch. Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một nghành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và kinh tế Du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới. Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người. Trong thời kỳ cổ đại Ai Cập và Hy Lạp hoạt động du lịch mang tính tự phát, đó là các cuộc hành hương về đất thánh, các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ KiTô giáo. Tới thế kỷ thứ XVII, khi các cuộc chiến tranh kết thúc thời kỳ phục hưng ở các nước châu Âu bắt đầu, kinh tế xã hội phát triển nhanh, thông tin, bưu điện cũng như giao thông vận tải phát triển và thúc đẩy cho lịch sử phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ du lịch hiện đại gắn liền với sự ra đời của các hãng lữ hành Thomas Cook. Năm 1841 Thomas Cook đã tổ chức cho 570 người từ Leicestor đến Longshoroungh với một mức giá trọn gói gần các dịch vụ vui chơi, ca nhạc, đồ uống... Nhưng du lịch chỉ thực sự phổ biến cuối thế kỷ XIX và bùng nổ vào thập kỷ 60 cuối thế kỷ XX này khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai đem lại những thành quả vô cùng to lớn về kinh tế xã hội. Con người sống trong không gian với "bê tông" "máy tính", tác phong công nghiệp đã quá mệt mỏi họ nảy sinh nhu cầu trở về với thiên nhiên, về với cuội nguồn văn minh nông nghiệp hay chỉ đơn giản để nghỉ ngơi, sau một thời gian lao động. Như vậy, du lịch đã trở thành một hiện tượng quen thuộc trong đời sống con người và ngày càng phát triển phong phú cả về chều rộng và chiều sâu. Vậy du lịch là gì? Về khía niệm du lịch, trên thế giới nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau đi từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. * Dưới góc độ khách du lịch: - Theo nhà kinh tế học người Áo Rozep Stander cho rằng khách du lịch là loại khách đi lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế. * Dưới góc độ nhà kinh doanh du lịch: Du lịch được hiểu là việc sản xuất bán và trao cho khách các dịch vụ và hàng hoá nhằm đảm bảo việc đi lại, lưu trú, ăn uống, giải trí, thông tin đem lại lợi ích kinh tế cho quốc gia và các tổ chức kinh doanh đó. Ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong pháp lệnh du lịch như sau: "Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định" 2. Khái niệm về du lịch quốc tế: Các định nghĩa về du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định. Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa của nhiều tác giả khác nhau. Theo định của hội nghị ở Rôma do liên hiệp quốc tổ chức về các vấn đề của du lịch quốc tế năm 1963: Khách du lịch quốc tế là những người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian 24h hoặc hơn. Định nghĩa trên mắc phải sai lầm đó là không đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng hay phụ thuộc giữa các ngành với nhau trong du lịch. Định nghĩa vẫn chưa giới hạn đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và các mối quan hệ kinh tế du lịch (các mối quan hệ thuộc loại nào: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá). Ngoài ra, định nghĩa cũng bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách du lịch. Xuất phát từ những thực tế đó, chúng ta chỉ có thể nhìn nhận du lịch quốc tế như sau: Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của cuộc hành trình nằm ở các quốc gia khác nhau. Ở hình thức này khách phải vượt qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Từ cách nhìn nhận trên chúng ta có thể thấy rằng du lịch quốc tế là những hình thức du lịch có dính dáng tới yếu tố nước ngoài, điểm đi và điểm đến của hành trình ở các quốc gia khác nhau, khách du lịch sử dụng ngoại tệ của nước mình đem tới nước du lịch để chi tiêu cho nhu cầu du lịch của mình. 3. Phân loại du lịch quốc tế. Du lịch quốc tế được chia làm hai loại: Du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động. + Du lịch quốc tế chủ động là hình thức du lịch của khách ngoại quốc đến một đất nước nào đó, ví dụ đến Việt Nam và tiêu tiền kiếm được từ đất nước của họ. + Du lịch quốc tế bị động là hình thức du lịch có trong trường hợp các công dân Việt Nam đi ra ngoài biên giới nước ta và trong chuyến đi ấy, họ tiêu tiền kiếm được ở Việt Nam. Xét trên phương diện kinh tế, du lịch quốc tế chủ động gần giống hoạt động xuất khẩu vì nó làm tăng thu nhập ngoai tệ cho đất nước du lịch. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đổi ra bản tệ để chi tiêu số tiền chi tiêu ở nơi du lịch đẩy mạnh cán cân thanh toán của Việt Nam. Đối với hình thức du lịch quốc tế bị động, loại du lịch này tương tự như nhập khẩu hàng hoá vì nó liên quan tới chi ngoại tệ. Xét trên phương tiện văn hoá xã hội: Khách du lịch quốc tế có cơ hội tìm hiểu các phong tục tập quán, hệ thống văn hoá, pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự chi phối của hệ thống chính trị, văn hoá, kinh tế cũng như pháp luật của nước đó. Điều này có nghĩa là khi đó du lịch tại một quốc gia khác, khách du lịch phải tuân theo qui định về luật pháp, văn hoá, xã hội, của quốc gia đó. Nguyên tắc trao đổi văn hoá và kinh tế trên cơ sở này sẽ có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của du lịch quốc tế chủ động cũng như du lịch quốc tế bị động, tuy nhiên mỗi đất nước tuỳ thuộc vào khả năng của mình mà có những định hướng phát triển cho phù hợp. 4. Vai trò của du lịch quốc tế. Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, của vùng hoặc của một nơi riêng biệt thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do vậy, để nhận rõ được vai trò của du lịch quốc tế đối với quá trình tái sản xuất xã hội cần hiểu rõ những đạc điểm tiêu dùng du lịch. Những đặc điểm quan trong nhất là: + Nhu cầu tiêu dùng trong du lịch là những nhu cầu đặc biệt bao gồm: Nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, nhu cầu khám phá những điều mới lạ. + Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu hàng hoá (thức ăn, hàng hoá mua sắm, hàng lưu niệm...) và đặc biệt là các nhu cầu về dịch vụ nơi ở, vận chuyển hành khách, y tế, thông tin... + Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá diễn ra đồng thời với việc sản xuất ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hoá đến cho khách và ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có hàng hoá. + Việc tiêu dùng du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu đối với con người (với ngoại tệ ở thể loại du lịch giữa khi đó du lịch có ý nghĩa sống còn đối với người bệnh) + Tiêu dùng du lịch thường xảy ra theo thời. Qua những đặc điểm tiêu dùng ở trên, ta có thể thấy vai trò của kinh doanh du lịch quốc tế như sau: 4.1 Du lịch quốc tế tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Thật vậy, năm 1998, Mêhico đã thu được 7,8 tỷ USD, đứng thứ 2 về thu nhập của cả nước, đứng thứ 14 thế giới về thu nhập từ du lịch. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước và thường được sử dụng để mua sắm thiết bị máy móc cần thiết cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng thu nhập quốc dân. 4.2 Tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch. Cũng như ngoại thương, du lịch quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch, tiết kiệm lao động xã hội khi xuất khẩu một số mặt hàng. Nhưng xuất khẩu theo đường du lịch quốc tế có lợi hơn nhiều so với xuất khẩu ngoại thương. Trước hết, một phần rất lớn đối tượng mua bán quốc tế là các dịch vụ (lưu trữ, bổ sung, trung gian ... ) Do vậy, xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn uống, hoa quả, rau xanh, hàng lưu niệm. Như vậy, xuất khẩu qua du lịch quốc tế là "Xuất khẩu tại chỗ" hàng hoá, dịch vụ, những hàng hoá không thể hay khó xuất khẩu được con đường ngoại thương thông thường, mà nếu muốn xuất khẩu chúng thì phải đầu tư nhiều chi phí cho việc đóng gói, bảo quản và vận chuyển mà giá cả lại thấp hơn. Việc xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế luôn đảm bảo thực hiên doanh thu lớn hơn nếu cùng xuất khẩu những hàng hoá đó theo đường ngoại thương vì hàng hoá xuất khẩu theo đường du lịch quốc tế theo giá bán lẻ còn nếu xuất khẩu hàng hoá đó bằng con đường ngoại thương thì giá này là giá bán buôn. Xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế không tốn chi phí vận chuyển quốc tế, tốn ít chi phí đóng gói và bảo quản hơn xuất khẩu ngoại thương vì nó được vận chuyển trong phạm vị đất nước du lịch. Bên cạnh đó, xuất khẩu theo đường kinh doanh du lịch quốc tế không phải tốn chi phí trong hoạt động xuất khẩu do trả thuế xuất khẩu cũng như tốn các chi phí về bảo hiểm. 4.3 Tiết kiệm thời gian và tăng vòng quay của vốn đầu tư: Do đặc điểm của tiêu dùng du lịch là: Khách hàng phải tự vận động đến nơi có hàng hoá và dịch vụ chứ không phải vận chuyển hàng hoá đến với khách nên tiết kiệm được thời gian làm tăng nhanh vòng quay của vốn đầu tư, do đó thu hồi vốn nhanh và có hiệu quả. Ngoài ra khi thu hồi vốn đầu tư vào du lịch quốc tế thực chất đã "Xuất khẩu" được nguyên vật liệu và lao động. Nguyên vật liệu ở đây thường không phải là đối tượng xuất khẩu theo đường ngoại thương. 4.4 Du lịch quốc tế là phương tiện quảng cáo không mất tiền cho đất nước du lịch chủ nhà. Khi khách tới khu du lịch, khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó, khi trở về khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập khẩu mặt hàng đó về quốc gia của mình. Theo cách này, du lịch quốc tế góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước du lịch chủ nhà. 4.5 Mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phát triển của du lịch quốc tế có ý nghĩa quan trong đến việc mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ này chủ yếu theo các hướng: Ký kết hợp đồng trao đổi khách giữa các nước tổ chức và hãng du lịch; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vay vốn phát triển du lịch; hợp tác trong lĩnh vực cải tiến các mối quan hệ tiền tệ trong du lịch quốc tế. Bên cạnh đó, du lịch quốc tế góp phần thúc đẩy các quốc gia bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên-xã hội. Du lịch quốc tế cũng kích thích các ngành nghề khác phát triển như: Giao thông vận tải, thông tin liên lạc, khách sạn, y tế, xây dựng. Du lịch quốc tế có vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần quốc tế cho các dân tộc, làm cho mọi người thấy được sự cần thiết phải phát triển và củng cố các nối quan hệ quốc tế. Du lịch quốc tế góp phần làm cho các dân tộc gần gũi nhau hơn, bình thường hoá quan hệ quốc tế và tăng thêm phần hữu nghị giữa các dân tộc. Theo số liệu thống kê gần đây của UNESCO thì 11% đầu tư của thế giới dành cho du lịch, 10,9% sản phẩm sản xuất ra là do ngành này, 10.7% số người lao động làm việc trong lĩnh vực "Công nghiệp không khói" và 20% giao thông thương mại thế giới phục vụ chu du lịch. Điều đó càng khẳng định du lịch là nghành có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhiều quốc gia. 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động dulịch quốc tế. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, lĩnh vực dịch vụ đã đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh doanh xã hội của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Năm 1970, dịch vụ chiếm 55% tổng sản phẩm của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đến năm 1990, tỉ trọng của dịch vụ đã tăng lên tới 65%, trong đó phần lớn là sự tăng trưởng của các ngành tham gia vào thương mại quốc tế. Chính vì vậy, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh dịch vụ quốc tế nói chung và kinh doanh du lịch quốc tế nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp khắc phục, hạn chế những tác động xấu đến lĩnh vực kinh doanh du lịch quốc tế, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này. Có thể liệt kê một vài yếu tố ảnh hưởng tới kinh doanh du lịch quốc tế : Sự tăng cầu về du lịch của người tiêu dùng (do thu nhập tăng). Sự tăng cầu của các hãng về du lịch. Khả năng cung ứng của các nhà cung cấp du lịch. Giá cả và chất lượng dịch vụ du lịch. Việc thiểu hóa và việc bảo tồn nguyên vật liệu cũng là một nguyên nhân khiến cho tỉ trọng ngành du lịch tăng lên biểu hiện ở đầu ra công nghiệp. Thay đổi kỹ thuật đã nuôi dưỡng khả năng tồn tại và khả năng tiếp xúc với nhau của các hãng kinh doanh du lịch cách xa trên thế giới. Sự phát triển của các Công ty đa quốc gia. Việc xoá bỏ các hàng rào chắn, các quy định cũng tạo ra điều kiện cho ngành du lịch phát triển ở tầm cỡ quốc tế. Sự can thiệp của chính phủ. Có thể nói, đến lượt mình, thương mại lại trở thành chìa khóa cho sự phát triển ngành du lịch trên phạm vi quốc tế. ảnh hưởng của các yếu tố trên tới kinh doanh du lịch quốc tế biểu hiện như sau : Việc tiêu chuẩn các dịch vụ du lịch được cung cấp. Các cơ hội cho việc đặc thù hóa các dịch vụ du lịch được cải tạo, chẳng hạn thông qua việc ký kết hợp đồng với một hãng lập trình nước ngoài để thiết kế hệ thống kế toán đặc thù. Cuộc cách mạng thông tin là trung tâm của toàn bộ quá trình, cụ thể là dưới dạng máy tính hóa và việc trao đổi thông tin qua mạng. Sự đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực máy tính và sự truyền bá nhanh chóng của nó đã và đang cách mạng hóa tốc độ và khối lượng của chuyển đổi thông tin nhiều lần trong cùng một thế hệ. Các dịch vụ kinh doanh du lịch đòi hỏi sự gặp mặt trực tiếp giữa người mua và người bán ngày càng giảm. Sự thay đổi nhanh chóng của hệ thống thông tin và mạng lưới liên lạc, sự hoạt động của các dịch vụ không còn phụ thuộc vào sự có mặt mang tính địa lý của nó nữa. Các Công ty đa quốc gia có thể bán các dịch vụ mà không cần đầu tư trực tiếp, tuy nhiên đầu tư trực tiếp và sản lượng tiêu thụ các dịch vụ qua các thực thể của họ dường như là một phương thức được ưa chuộng. Mặc dù các rào chắn kỹ thuật và chính sách đang giảm đối với các dịch vụ song trên thực tế, với số lượng và các hình thức của các rào chắn dịch vụ như hiện này thì các rào chắn dịch vụ vẫn còn cao hơn nhiều so với các rào chắn hàng hóa thông thường khác. Các rào chắn này tồn tại dưới dạng như : Kiểm soát trực tiếp di chuyển dịch vụ du lịch qua biên giới. Hạn chế các dự án đầu tư liên quan đến dịch vụ du lịch. Không khuyến khích thương mại thông qua các thủ tục hành chính, thuế khóa và các tiêu chuẩn sở hữu. Cả hai đối tượng là các hãng cung cấp dịch vụ và các khách hàng tiềm năng đều đòi hỏi việc xóa bỏ các hàng rào này. Sự không khuyến khích của chính phủ đối với việc cung cấp và tiêu thụ các sản phẩm du lịch quốc tế. Các trở ngại đối với việc kinh doanh du lịch ở nước ngoài gồm hai hình thức cơ bản : Các hàng rào hạn chế xâm nhập và những khó khăn của việc cung cấp dịch vụ ở nước ngoài. Các hàng rào hạn chế xâm nhập thường được xem là yếu tố để đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh kinh tế. Chính
Tài liệu liên quan