Thực trạng văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội

Quá trình đô thị hoá và sự phát triển nhanh chóng của các thành phố trên đất nước ta là động lực thúc đẩy và làm thay đổi chất lượng hình ảnh và không gian kiến trúc đô thị, đặc biệt là kiến trúc nhà ở. Là một bộ phận của cấu trúc đô thị, loại hình nhà ở chung cư tồn tại trong lòng đô thị cùng quá trình phát triển của nó. Song hành với sự phát triển đô thị Việt Nam, chung cư cũng có những biến đổi từ hình dáng đến dân cư sinh sống. Từ bước khởi đầu là những dãy nhà chung cư thấp tầng, mà người ta hay gọi là nhà tập thể trong thời kì bao cấp, cho đến những năm gần đây, chung cư đã có dấu hiệu thay hình đổi dạng. Loại hình nhà ở chung cư cao tầng xuất hiện ngày càng nhiều ở Hà Nội và các thành phố lớn như là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, để rồi nhanh chóng trở thành xu hướng phát triển nhà ở của đô thị Việt Nam hiện đại. Thế nhưng cho đến nay, người ta mới chỉ quan tâm tới cơ sở vật chất bên ngoài chứ chưa nghĩ tới việc phải ứng xử với nó ra sao. Chính vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá và tìm ra một khuôn mẫu phát triển cho văn hóa ứng xử của cư dân chung cư là vô cùng cần thiết. Xoay quanh sự phát triển của loại hình nhà ở nói trên, ta cũng thấy nhiều luồng ý kiến trái ngược nhau, có ý kiến cho rằng chung cư cao tầng là phát triển tất yếu và hợp lý của nhà ở đô thị, có ý kiến lại cho rằng loại hình này khó có khả năng giải quyết triệt để vấn đề nhà ở và không thực sự phù hợp với Việt Nam, cũng có ý kiến nghi ngờ khả năng phát triển lành mạnh trong tương lai của chung cư cao tầng, xuất phát từ thực trạng xuống cấp của chung cư cũng như những biểu hiện tiêu cực của lối sống ở chung cư cũ thấp tầng tại Việt Nam. Để đưa ra cách phân giải cho những ý kiến trái chiều trên, không còn cách nào khác là phải nghiên cứu chung cư cao tầng một cách toàn diện, về cả mặt lịch sử, kiến trúc, xã hội, và văn hóa. Từ trong các khu nhà chung cư, văn hóa chung cư cũng đang dần được định hình và trở thân thân thuộc, tạo nên nhiều giá trị nhân văn đặc trưng cho văn hóa ở của cư dân đô thị. Vì thế nghiên cứu văn hóa chung cư nói chung và văn hóa ứng xử trong chung cư cao tầng nói riêng là một việc làm thiết thực để có cái nhìn đúng đắn với đời sống của cư dân chung cư cũng như cư dân đô thị hiện đại. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên đang bộc lộ nhiều biểu hiện tiêu cực, có nguy cơ phá vỡ nền tảng văn hóa, đạo đức truyền thống.

doc74 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2508 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Quá trình đô thị hoá và sự phát triển nhanh chóng của các thành phố trên đất nước ta là động lực thúc đẩy và làm thay đổi chất lượng hình ảnh và không gian kiến trúc đô thị, đặc biệt là kiến trúc nhà ở. Là một bộ phận của cấu trúc đô thị, loại hình nhà ở chung cư tồn tại trong lòng đô thị cùng quá trình phát triển của nó. Song hành với sự phát triển đô thị Việt Nam, chung cư cũng có những biến đổi từ hình dáng đến dân cư sinh sống. Từ bước khởi đầu là những dãy nhà chung cư thấp tầng, mà người ta hay gọi là nhà tập thể trong thời kì bao cấp, cho đến những năm gần đây, chung cư đã có dấu hiệu thay hình đổi dạng. Loại hình nhà ở chung cư cao tầng xuất hiện ngày càng nhiều ở Hà Nội và các thành phố lớn như là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, để rồi nhanh chóng trở thành xu hướng phát triển nhà ở của đô thị Việt Nam hiện đại. Thế nhưng cho đến nay, người ta mới chỉ quan tâm tới cơ sở vật chất bên ngoài chứ chưa nghĩ tới việc phải ứng xử với nó ra sao. Chính vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá và tìm ra một khuôn mẫu phát triển cho văn hóa ứng xử của cư dân chung cư là vô cùng cần thiết. Xoay quanh sự phát triển của loại hình nhà ở nói trên, ta cũng thấy nhiều luồng ý kiến trái ngược nhau, có ý kiến cho rằng chung cư cao tầng là phát triển tất yếu và hợp lý của nhà ở đô thị, có ý kiến lại cho rằng loại hình này khó có khả năng giải quyết triệt để vấn đề nhà ở và không thực sự phù hợp với Việt Nam, cũng có ý kiến nghi ngờ khả năng phát triển lành mạnh trong tương lai của chung cư cao tầng, xuất phát từ thực trạng xuống cấp của chung cư cũng như những biểu hiện tiêu cực của lối sống ở chung cư cũ thấp tầng tại Việt Nam. Để đưa ra cách phân giải cho những ý kiến trái chiều trên, không còn cách nào khác là phải nghiên cứu chung cư cao tầng một cách toàn diện, về cả mặt lịch sử, kiến trúc, xã hội, và văn hóa. Từ trong các khu nhà chung cư, văn hóa chung cư cũng đang dần được định hình và trở thân thân thuộc, tạo nên nhiều giá trị nhân văn đặc trưng cho văn hóa ở của cư dân đô thị. Vì thế nghiên cứu văn hóa chung cư nói chung và văn hóa ứng xử trong chung cư cao tầng nói riêng là một việc làm thiết thực để có cái nhìn đúng đắn với đời sống của cư dân chung cư cũng như cư dân đô thị hiện đại. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên đang bộc lộ nhiều biểu hiện tiêu cực, có nguy cơ phá vỡ nền tảng văn hóa, đạo đức truyền thống. Bằng những điều tra khách quan cùng kinh nghiệm chủ quan của bản thân người viết – cũng là một cư dân sinh sống tại chung cư cao tầng ở Hà Nội, khóa luận mong muốn sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản về chung cư và văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng, đưa ra những minh chứng chân thực, cụ thể về thực trạng, cũng như đóng góp một số kiến nghị cho việc xây dựng nếp ứng xử văn hóa trong môi trường chung cư cao tầng tại Hà Nội. Đó cũng là bước đệm cho việc tìm hiểu văn hóa chung cư nói riêng và “văn hóa ở” của người dân đô thị hiện đại Việt Nam nói chung. Lịch sử vấn đề 1. Về chung cư và văn hóa chung cư Việc nghiên cứu vấn đề nhà ở đô thị đã có từ lâu, luôn nóng bỏng và hấp dẫn, trở thành một đối tượng lớn trong kiến trúc, xây dựng, các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và lối sống. Tuy nhiên, chung cư và chung cư cao tầng đến nay vẫn là những khái niệm khá mới mẻ, hiện nay mới chỉ xuất hiện một số các công trình nghiên cứu về chung cư dưới góc độ kiến trúc và xã hội học, có thể kể tên một số các công trình tiêu biểu như sau: Dưới góc độ kiến trúc, cuốn Lịch sử kiến trúc Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin dày hơn 1300 trang do GS. KTS Ngô Hữu Quỳnh viết đã khái quát sự phát triển của kiến trúc Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến 1998, đây cũng là cơ sở khoa học để khóa luận thống kê lịch sử phát triển của loại hình chung cư tại Việt Nam và Hà Nội trong chương I. Cũng ở góc độ kiến trúc, cuốn Kiến trúc dân dụng, NXB Đại học XD và Nhà ở công cộng, NXB Khoa học kĩ thuật đã nêu ra những khái niệm về chung cư, chung cư cao tầng, cùng với một số luận án TS kiến trúc của Vũ An Khánh (Nghiên cứu cải tạo nâng cấp các khu nhà chung cư cũ nhiều tầng xây dựng tại Hà Nội giai đoạn 1960 – 1986), Nguyễn Tố Lăng (vấn đề quy hoạch cải tạo không gian khu ở tại Hà Nội theo khuynh hướng phát triển bền vững) đã tìm hiểu về kiến trúc chung cư một cách cụ thể. Dưới góc độ xã hội học, nổi bật là báo cáo đề tài cấp viện Xã hội học của Trần Cao Sơn: Chung cư cao tầng, loại hình nhà ở mới Hà Nội, những vấn đề cần được xem xét, cụ thể là thông qua trường hợp nghiên cứu khu chung cư cao tầng Bắc Linh Đàm, Hà Nội, kết quả báo cáo dựa trên phương pháp khảo sát thực địa, điều tra chọn mẫu 30 trường hợp, kết hợp phỏng vấn sâu 10 trường hợp, từ đó đưa ra một số vấn đề cần điều chỉnh, bổ khuyết trong việc hoàn thiện chung cư cao tầng sao cho phù hợp với nhu cầu người dân. Ngoài ra, còn một số các công trình nghiên cứu dưới góc độ xã hội học cũng đã đề cập đến vấn đề nhà ở chung cư và đời sống, lối sống của người dân đô thị trong mô hình nhà ở nói trên như. Xã hội học đô thị, và Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội (tập 1, 2, NXB Văn hóa thông tin), đều do Trịnh Duy Luân chủ biên. Dưới góc độ văn hóa, ta thấy xuất hiện một công trình nghiên cứu về văn hóa chung cư là đề tài luận văn cao học của Nguyễn Thị Hà Thanh, trường ĐH KHXHNV thành phố Hồ Chí Minh, với tiêu đề: Văn hóa chung cư (trường hợp Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Có thể thấy, luận văn đã bước đầu tìm hiểu những đặc trưng văn hóa chung cư trong giai đoạn chuyển đổi, tham gia nền kinh tế thị trường và đô thị Việt Nam còn bị văn hóa làng xã ảnh hưởng. Đáng chú ý là bên cạnh việc tìm hiểu thực trạng, luận văn còn tập trung nghiên cứu những va chạm trong văn hóa chung cư. Khái niệm va chạm được thể hiện ra bên ngoài ở tâm lý bực bội, ức chế trong đời sống hằng ngày của cư dân chung cư. Tuy nhiên, do triển khai theo hướng tổng hợp, khái quát, nên người viết đã không đưa ra những dẫn chứng cụ thể, chưa đánh giá sâu sắc, và đưa ra những phương hướng giải quyết cho những vấn đề đặt ra. 2. Về văn hóa ứng xử Khác với vấn đề chung cư và văn hóa chung cư, vấn đề ứng xử lại được các nhà khoa học tiếp cận và phân tích từ nhiều góc độ, tùy lĩnh vực, chuyên môn. Các nhà tâm lý học khá tập trung vào vấn đề này và cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu là cuốn Tâm lý học ứng xử, NXB Giáo dục, 2000. Còn với các nhà văn hóa, văn hóa ứng xử không chỉ được nhìn dưới cái nhìn tổng quát, như trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục của GS Trần Ngọc Thêm, hay cuốn Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay, NXB Từ điển Bách Khoa và Viện văn hóa của PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn mà còn với cái nhìn cụ thể đối với từng đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu là đô thị Hà Nội, có thể kể đến cuốn Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên của TS Nguyễn Viễn Chức, và một số bài viết trên tạp chí như: Văn hóa đô thị với nếp sống người Hà Nội, Phan Đăng Long, tạp chí VHNT số 26. Ứng xử của người dân đô thị với thiên nhiên, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hồ Sĩ Vịnh. Như vậy, từ trước đến nay, ta thấy vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về văn hóa chung cư cao tầng, và đặc biệt là văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng như một đối tượng riêng biệt. Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của những công trình trên, khóa luận triển khai một đề tài mới: Văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng tại Hà Nội. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Có thể phân chia thành 2 đối tượng chính: môi trường tự nhiên chung cư cao tầng và văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, và môi trường xã hội chung cư cao tầng và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội của cư dân sống tại chung cư cao tầng ở Hà Nội. Từ hai đối tượng trên, khóa luận còn phân chia thành các đối tượng cụ thể để phục vụ cho việc nghiên cứu như: Văn hóa ứng xử với không gian chung khu chung cư. Văn hóa ứng xử với căn hộ chung cư. Văn hóa ứng xử với gia đình của cư dân chung cư. Văn hóa ứng xử với cộng đồng của cư dân chung cư. 2. Phạm vi nghiên cứu Do giới hạn một khóa luận và điều kiện cho phép, chúng tôi tiến hành khảo sát nghiên cứu văn hóa ứng xử tại chung cư cao tầng ở Hà Nội tại phạm vi là các khu chung cư cao tầng (phân biệt với chung cư thấp tầng), thuộc các khu đô thị mới, hiện đại của thành phố Hà Nội khi chưa mở rộng với Hà Tây và một số huyện của Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Mục đích nghiên cứu - Bước đầu tìm hiểu văn hóa ứng xử chung cư cao tầng tại Hà Nội– một phạm trù văn hóa mới mẻ tại Việt Nam, từ đó có cái nhìn tổng quát về văn hóa ứng xử với loại hình nhà ở kiểu mới hiện đại, và văn hóa lối sống của người dân đô thị Việt Nam hiện nay nói chung. - Khảo sát, mô tả và phân tích thực trạng văn hóa ứng xử của người dân sinh sống tại chung cư cao tầng ở Hà Nội. - Đánh giá, tìm ra những vấn đề nảy sinh và đưa ra phương hướng để xây dựng nếp ứng xử có văn hóa trong môi trường chung cư cao tầng tại Hà Nội cũng như các đô thị khác ở nước ta. Phương pháp nghiên cứu Để có căn cứ xem xét, đánh giá thực trạng văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội, khóa luận tiến hành nghiên cứu văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng Hà Nội bằng những phương pháp chính: - Phương pháp nghiên cứu thực địa. - Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, đây là phương pháp chính, có kết hợp với phỏng vấn sâu. - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, tổng hợp và phân tích những tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. VI. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung chính của khóa luận được triển khai ở ba chương: Chương I: Những vấn đề lý luận về chung cư cao tầng và văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư. Chương II: Thực trạng văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội. Chương III: Xây dựng nếp ứng xử văn hóa trong môi trường chung cư – Những trở ngại và phương hướng giải quyết. PHẦN NỘI DUNG Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUNG CƯ CAO TẦNG VÀ VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG MÔI TRƯỜNG CHUNG CƯ 1.1. Cơ sở lý luận về chung cư cao tầng 1.1.1. Khái niệm chung cư cao tầng Chung cư là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực khoa học xây dựng và hiện nay đã được sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau, ta có thể điểm qua một số cách định nghĩa tiêu biểu về chung cư như sau: “Chung cư là những khu nhà bao gồm một hay nhiều đơn nguyên, bên chung cư trong bố trí các căn hộ khép kín cho các gia đình sinh sống. Chung cư thường xuất hiện nhiều ở các đô thị”. [3] “Chung cư là dạng nhà ở trong sở hữu đất, trong đó mỗi căn hộ chỉ giành riêng cho mục đích nhà ở và có lối vào riêng tách rời từ diện tích chung của khu nhà chung cư. Chủ sở hữu căn hộ có quyền sử dụng chung tất cả không gian cộng đồng trong khuôn viên khu chung cư”. [13; 5] “Nhà chung cư là nhà ở có từ hai tầng trở lên, có lối đi, cầu thang và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho nhiều hộ gia đình, cá nhân. Nhà chung cư có phần sở hữu riêng của từng hộ gia đình, cá nhân và phần sở hữu chung của tất cả các hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhà chung cư”. (Điều 70 của Luật Nhà ở 2005). Theo cuốn Kiến trúc dân dụng, NXB Đại học xây dựng, “chung cư là kiểu nhà tập thể của nhiều gia đình, mỗi gia đình có một căn hộ riêng, sống độc lập, khép kín. Những căn hộ này lại sử dụng chung nhiều bộ phận kiến trúc nên được gọi là chung cư”. Dưới góc độ kỹ thuật - kiến trúc xây dựng, cuốn sách cũng đưa ra các đặc điểm nhằm phân biệt chung cư với các kiểu nhà khác: - Bộ phận sử dụng chung là hành lang công cộng trước căn hộ, các cầu thang chung của nhiều căn hộ, sân chơi, sân nghỉ, các phòng kỹ thuật, các khu vực dịch vụ. - Thiết kế phải có tỉ lệ hộ phòng ứng với cấu trúc các hộ gia đình khu ở tương lai, đáp ứng được điều kiện xây dựng phổ cập với quy mô lớn, thông thường người ta sử dụng phương pháp xây dựng công nghiệp hóa, xây dựng hàng loạt theo hướng những thiết kế mẫu. Trên cơ sở các định nghĩa trên, ta có thể xác định phạm vi khái niệm chung cư như sau: Chung cư là thuật ngữ dùng để chỉ một dạng nhà ở xuất hiện nhiều ở các đô thị, bao gồm nhiều căn hộ riêng biệt, độc lập cho nhiều gia đình sinh sống. Chủ sở hữu căn hộ có quyền sử dụng chung tất cả không gian cộng đồng trong khuôn viên chung cư. Hiện nay, thuật ngữ “nhà chung cư” còn có tác dụng thay thế thuật ngữ “nhà tập thể” mà người Việt Nam thời kỳ trước thường dùng. Chính vì vậy khóa luận cũng sử dụng hai thuật ngữ này với ý nghĩa tương đương nhau. Trong tiêu chuẩn xây dựng của nhiều nước, nhà ở cao tầng được phân loại như sau: loại I - từ 9 đến 16 tầng, loại II - từ 17 đến 25 tầng, loại - III từ 26 đến 40 tầng, còn trên 40 tầng là nhà ở chọc trời. Ở nước ta việc phân loại nhà ở theo chiều cao chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng. Theo các tài liệu chuyên môn và các giáo trình trong các trường đại học chuyên ngành kiến trúc và xây dựng, việc phân loại nhà ở theo chiều cao chỉ là sự ước lượng ở 2 nhóm: nhà ở thấp tầng và nhiều tầng - đến 5 tầng - tức là loại không có thang máy và nhà ở cao tầng - trên 5 tầng). Tiêu chuẩn phân loại trên cũng là cơ sở để hình thành khái niệm chung cư nhiều tầng và chung cư cao tầng, trong đó: Chung cư nhiều tầng: Những ngôi nhà có từ 4 đến 6 tầng nhà [16; 14]. Chung cư cao tầng: Những ngôi nhà có số tầng từ 7 trở lên và cần trang bị thang máy kết hợp thang bộ. [16; 14]. 1.1.2. Một số thuật ngữ liên quan Ngoài thuật ngữ chung cư, khóa luận cũng sử dụng một số các thuật ngữ khác liên quan: Căn hộ: Là một đơn vị nhà ở gia đình trong nhà chung cư, bao gồm 1 tập hợp không gian phòng có quan hệ khép kín phục vụ đời sống độc lập cho một hộ gia đình. Độc lập và khép kín: Độc lập và khép kín (dùng cho nhà ở) có ý nghĩa là nguyên tắc cơ bản trong thiết kế, tạo lập căn hộ. Tính chất khép kín của căn hộ là đầy đủ các không gian chức năng đảm bảo sinh hoạt cho hộ gia đình sống trong căn hộ, không phải dùng chung với các căn hộ khác. Tính chất độc lập của căn hộ là căn hộ không bị ảnh hưởng bởi bên ngoài, sinh hoạt gia đình được đảm bảo tính riêng tư độc lập cả tầm nhìn và âm thanh. [16] Chung cư kiểu đơn nguyên: Là loại kiến trúc nhà phổ biến ở các đô thị nhằm tiết kiệm đất xây dựng, tăng được mật độ cư trú. Loại nhà này thường có vài chục căn hộ (30-80) trong một ngôi nhà có tầng trung bình là 3 đến 5 tầng. Ngôi nhà được chia làm nhiều “đoạn” gọi là đơn nguyên, mỗi đơn nguyên có một cầu thang chung và mỗi tầng có vài căn hộ sử dụng cầu thang đó. Phân loại đơn nguyên theo vị trí: đơn nguyên góc, đơn nguyên giữa, đơn nguyên đầu hồi. Phân loại theo căn hộ: Đơn nguyên hai căn hộ, 3 căn hộ, đơn nguyên 4 căn hộ [17; 15]. Chung cư kiểu hành lang bên: Loại nhà thường gặp trong những năm 70, 80m kết cấu nhà đơn giản, một cầu thang có thể phục vụ nhiều gia đình, mức độ ảnh hưởng lẫn nhau của các gia đình khá lớn. So với các nhà khác, hành lang bên có diện tích giao thông lớn và các căn hộ không được kín đáo, ấm cúng và yên tĩnh so với nhà đơn nguyên. [17; 22]. Chung cư kiểu hành lang giữa: Trong tòa nhà hành lang giữa, các căn hộ đặt dọc theo hai bên hành lang. Nhà có thể có một, hai hoặc nhiều cầu thang tùy theo chiều dài hành lang, chiều rộng hành lang từ 1,4 đến 1,6 m. Giá thành rẻ do bố trí nhiều căn hộ trong 1 tầng, hành lang dài. [17; 23]. Chung cư có sân trong: Thường 2 bên cầu thang trong hoặc xen giữa hành lang giữa có làm sân trong hoặc giếng để tăng số hộ, 1 cầu thang có thể phục vụ thông thoáng cho số hộ nằm quá sâu. Sân giếng có thể tạo ra ngay trong mặt bằng một đơn nguyên cũng có khi hình thành khi ghép nối các đơn nguyên. [17; 24]. Tiểu khu nhà ở: Thuật ngữ “tiểu khu nhà ở” được dịch từ tiếng Nga, tuy nhiên, khái niệm này được người Mỹ đầu tiên đề xuất năm 1923, gọi tên là “đơn vị láng giềng” nhằm tổ chức và xây mới khu vực lưu trú trong đô thị, dựa trên cơ sở cung cấp đầy đủ dịch vụ công cộng cần thiết cho người dân. Tiểu khu nhà ở gồm nhiều nhóm nhà ở, trong đó ngoài nhà ở còn bao gồm các công trình công cộng như trường học và các công trình khác phục vụ nhu cầu hàng ngày của người dân. Mô hình này được nhiều nước trên thế giới áp dụng và phát triển. [10; 8]. Khu nhà ở: Theo lý thuyết “khu và tiểu khu nhà ở” của Liên Xô (cũ), khu nhà ở là quần thể nhiều nhà ở sử dụng chung hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, dựa trên nguyên tắc cung cấp dịch vụ công cộng cấp cao hơn, gọi là cấp định kỳ. [10; 9]. Khóa luận sử dụng thuật ngữ “khu nhà ở chung cư” để chỉ những khu chung cư, tập thể được thiết kế xây dựng theo lý thuyết quy hoạch tiểu khu nhà ở trước đây. 1.1.3. Quá trình hình thành, phát triển của chung cư và chung cư cao tầng tại Hà Nội Chung cư là loại hình nhà ở xuất hiện khá muộn so với xã hội con người và là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Người La Mã cổ đại, vào những năm 455 trước công nguyên đã cho xây dựng những loại nhà ở kiểu này nhằm giải quyết vấn đề tập trung cư dân đông đúc vào một khu vực địa lý nhỏ. Từ đó, một lối sống mới, cũng là một nét văn hóa mới của đô thị xuất hiện. Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, việc xây dựng chung cư trở nên phổ biến. Đặc biệt, ở những nước phát triển, sự bùng nổ mới đây của dạng thái đô thị nhà phố (townhouse) đã mang lại sự thay đổi trong nền văn hóa nhà ở thiên về căn hộ chung cư. Cho đến nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới, lối sống chung cư đã định hình và tạo nên những bản sắc văn hóa riêng. Ở Việt Nam, chung cư bắt đầu xuất hiện cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hóa, cùng sự du nhập của kỹ thuật xây dựng phương Tây sang Việt Nam trong những thập kỉ 40, 50. Khu cư xá Lareygnère được Pháp xây dựng nhằm phục vụ giới công chức Pháp, nằm trên đường phố Sài Gòn (khoảng những năm 50) đã đánh dấu sự xuất hiện của công trình nhà chung cư đầu tiên ở Việt Nam. [5; 353] Tại Hà Nội, chung cư xuất hiện từ khi thủ đô được giải phóng (1954) và từ đó đến nay đóng vai trò quan trọng và là minh chứng của những biến đổi kinh tế - xã hội của thành phố trong từng thời kì lịch sử.. Dựa trên quá trình quy hoạch nhà ở của Hà Nội, và theo những bước tiến bộ về số lượng, chất lượng chung cư và quan điểm thiết kế, khóa luận đã phân kì quá trình hình thành, phát triển của chung cư và chung cư cao tầng tại Hà Nội theo 3 giai đoạn chính: Từ năm 1954 đến năm 1969, từ năm 1970 đến 1986, và từ 1986 đến nay. Việc phân kì như trên cũng kết hợp với việc thống kê một số công trình chung cư tiêu biểu để thấy rõ lộ trình biến chuyển của chung cư Hà Nội từ chung cư thấp tầng đến chung cư cao tầng về cả 3 mặt: kiến trúc- kĩ thuật xây dựng, mục đích xây dựng, và đối tượng sinh sống. 1.1.3.1. Từ năm 1954 đến năm 1969 – Thế hệ chung cư thứ nhất Từ khi giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa, thành tích xây dựng chủ nghĩa xã hội của quân dân miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng rất đáng khích lệ. Kiến trúc cũng góp phần nhất định trong sự nghiệp lớn lao đó. Tổng diện tích Hà Nội mở rộng gấp 13 lần, diện tích nội thành mở rộng gấp 4 lần, diện tích xây nhà tăng 2,6 lần so với trước giải phóng. Các công trình nhà ở chung cư đã được liên tiếp xây dựng nhằm phục vụ đời sống của cư dân thủ đô. [5; 345]. Tuy nhiên năm 1966 – 1969, các cơ quan trường học, hộ dân ở đô thị phải đi về nông thôn sơ tán nên chỗ ở không phải là nhu cầu bức xúc, việc xây dựng chung cư do đó cũng tạm dừng lại. Chung cư thời này có dạng 4 đến 5 tầng, hay còn gọi là chung cư thấp tầng. Các mẫu nhà đầu tiên chưa có khái niệm căn hộ mà đó chỉ là những căn phòng đơn thuần, phân phối theo tiêu chuẩn 4m2/người cho cán bộ công nhân viên nhà nước. Về vị trí, các khu chung cư được xây dựng ở vòng ngoài các khu phố cũ. Về đặc điểm, các khu chung cư thời kỳ này xây dựng riêng lẻ hoặc chỉ là những nhóm nhà ở mà chưa hợp thành khu ở lớn, tỉ lệ buồng phòng không rõ ràng, tiêu chuẩn sử dụng, sinh hoạt thấp, không giải quyết được các khâu kỹ thuật như thoát khói, cấp thoá
Tài liệu liên quan