Đặt vấn đề: An toàn thực phẩm (ATTP) tại các quán ăn đang là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Trong đó, vấn đề vệ sinh bàn tay người nấu ăn, ô nhiễm vi sinh vật mẫu thức ăn và thực trạng ATTP đang là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các cấp quản lý. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ quán ăn đạt tiêu chuẩn ATTP và xác định mối liên quan giữa kiến thức của người chế biến thực phẩm, kết quả xét nghiệm bàn tay người chế biến thực phẩm, thực trạng an toàn thực phẩm quán ăn với kết quả xét nghiệm mẫu thức ăn đã chế biến tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương năm 2013. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, mẫu nghiên cứu bao gồm 400 quán ăn, 400 mẫu thức ăn chín và 400 người nấu ăn chính được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp kiến thức của người chế biến và bảng kiểm để quan sát thực hành của người chế biến, bảng kiểm để quan sát trực tiếp các điều kiện vệ sinh của quán ăn.Tiêu chí đánh giá mức độ ô nhiễm và phương pháp thử được dựa theo quyết định số 46 /2007/QĐ‐BYT. Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình phương để xác định mối liên quan giữa các biến số. Kết quả nghiên cứu: Trong số 400 quán ăn được khảo sát, có 16,8% quán đạt đầy đủ các điều kiện theo quy định. Các điều kiện về vệ sinh cơ sở, vệ sinh nhân viên và vệ sinh trong chế biến và bảo quản thực phẩm đạt dưới 40%. Người nấu ăn có kết quả xét nghiệm phết tay đạt là 87,3%. Trong tổng số 400 mẫu thức ăn chín, có 72,7% mẫu thức ăn đạt tiêu chuẩn về vi sinh vật. Có mối liên quan giữa điều kiện vệ sinh cá nhân với chất lượng mẫu thức ăn chín (PR=1,4; KTC95%: 1,3‐1,6; p<0,001). Có mối liên quan giữa kiến thức đúng chung với chất lượng mẫu thức ăn chín (PR=1,2, KTC95%: 1,1‐1,3; p=0,01).
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm quán ăn tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 168
THỰC TRẠNG VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM QUÁN ĂN
TẠI THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG, NĂM 2013
Đào Ngọc Yến*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: An toàn thực phẩm (ATTP) tại các quán ăn đang là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Trong
đó, vấn đề vệ sinh bàn tay người nấu ăn, ô nhiễm vi sinh vật mẫu thức ăn và thực trạng ATTP đang là một
trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các cấp quản lý.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ quán ăn đạt tiêu chuẩn ATTP và xác định mối liên quan giữa kiến thức của người
chế biến thực phẩm, kết quả xét nghiệm bàn tay người chế biến thực phẩm, thực trạng an toàn thực phẩm quán
ăn với kết quả xét nghiệm mẫu thức ăn đã chế biến tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, mẫu
nghiên cứu bao gồm 400 quán ăn, 400 mẫu thức ăn chín và 400 người nấu ăn chính được chọn theo phương
pháp ngẫu nhiên hệ thống. Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp kiến thức của người chế biến và
bảng kiểm để quan sát thực hành của người chế biến, bảng kiểm để quan sát trực tiếp các điều kiện vệ sinh của
quán ăn.Tiêu chí đánh giá mức độ ô nhiễm và phương pháp thử được dựa theo quyết định số 46 /2007/QĐ‐BYT.
Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình phương để xác định mối liên quan giữa các biến số.
Kết quả nghiên cứu: Trong số 400 quán ăn được khảo sát, có 16,8% quán đạt đầy đủ các điều kiện theo quy
định. Các điều kiện về vệ sinh cơ sở, vệ sinh nhân viên và vệ sinh trong chế biến và bảo quản thực phẩm đạt dưới
40%. Người nấu ăn có kết quả xét nghiệm phết tay đạt là 87,3%. Trong tổng số 400 mẫu thức ăn chín, có 72,7%
mẫu thức ăn đạt tiêu chuẩn về vi sinh vật. Có mối liên quan giữa điều kiện vệ sinh cá nhân với chất lượng mẫu
thức ăn chín (PR=1,4; KTC95%: 1,3‐1,6; p<0,001). Có mối liên quan giữa kiến thức đúng chung với chất lượng
mẫu thức ăn chín (PR=1,2, KTC95%: 1,1‐1,3; p=0,01).
Kết luận: Các quán ăn thực hiện chưa tốt các quy định về ATTP. Các mẫu thức ăn chín có tỉ lệ ô nhiễm vi
sinh vật cao. Có mối liên quan giữa điều kiện vệ sinh cá nhân, kiến thức đúng chung của người nấu ăn với chất
lượng mẫu thức ăn chín
Từ khóa: Quán ăn, an toàn thực phẩm
ABSTRACT
FOOD SAFETY IN RESTAURANTSIN DI AN TOWN, BINH DUONG PROVINCE, 2013
Dao Ngoc Yen* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 169 – 176
Background: Food Safety in restaurants is an important public health issue and one of the major concerns
of authorities.
Objectives: To determine the proportion of restaurants complying with food safety laws and to assess
whether food handlers’ food safety knowledge and hand hygiene practice, and food safety compliance levels of
restaurants are associated with microbial quality of cooked foods in restaurants in Di An town, Binh Duong
province in 2013.
Method: A descriptive cross‐sectional study was conducted. 400 food handlers, 400 samples of cooked food
and 400 restaurants were taken. Data were collected by face‐to‐face interviews, observation, and microbial
* Trung tâm Y tế Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương
Tác giả liên lạc: BS.CKII Đào Ngọc Yến ĐT: 0918467411 Email: bsngocyen@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 169
examination using a questionnaire, an observational check list and microbial analysis based on Decision No. 46 /
2007/QD‐BYT.
Results: Only about 17% of restaurants were in full compliance with food safety laws. Less than 73% of
cooked food samples met microbial criteria. There were relationships between food handlers’ personal hygiene and
microbial quality of cooked food (PR=1.4; 95% CI: 1.3‐1.6; p<0.001) and between food handlers’ knowledge and
microbial quality of cooked food (PR = 1.2; 95% CI: 1.1‐1.3; p = 0.01).
Conclusion: Most restaurants did not strictly comply with food safety laws. The proportion of contaminated
foods was still high. There was an association between personal hygiene, food safety knowledge and microbial
quality of cooked foods.
Keywords: Restaurant,food safety
ĐẶT VẤN ĐỀ
An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt, được tiếp cận với thực
phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối
với mỗi con người. An toàn thực phẩm đóng
góp to lớn trong việc cải thiện sức khỏe con
người, chất lượng cuộc sống và chất lượng giống
nòi(3). Ngày nay cùng với sự phát triển của kinh
tế, xã hội là sự phát triển đa dạng các loại thực
phẩm phục vụ cho đời sống con người. Tuy
nhiên, thực phẩm không đảm bảo chất lượng sẽ
dẫn đến tình trạng ngộ độc và ảnh hưởng đến
sức khỏe người sử dụng.Trong mười năm từ
2001 đến 2010, nước ta đã xảy ra 1.892 vụ ngộ
độc thực phẩm, với 55.381 người mắc và 514
người tử vong. Đặc biệt trong những năm gần
đây tình hình ngộ độc thực phẩm có xu hướng
tăng ở nơi có công nghiệp phát triển và tập trung
nhiều ở các loại hình dịch ăn uống bình dân như:
Quán ăn, bếp ăn tập thể v.v.(4).
Thị xã Dĩ An nằm ở trung tâm khu vực kinh
tế trọng điểm phía Nam của tỉnh Bình Dương,
giáp hai thành phố công nghiệp lớn là thành phố
Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng
ngộ độc thực phẩm, điều kiện an toàn thực
phẩm, vệ sinh cá nhân của người chế biến thức
ăn đặc biệt là chất lượng vệ sinh bữa ăn cho
người lao động tại các quán ăn uống bình dân
trên địa bàn thị xã Dĩ An đang được các cấp
chính quyền quan tâm, đặc biệt là với sự thông
tin của các phương tiện thông tin đại chúng
trong thời gian qua đã gây gây ảnh hưởng đến
tâm lý người tiêu dùng trong cộng đồng người
dân thị xã Dĩ An. Nhằm tìm ra những đề xuất và
giải pháp cải thiện tình hình an toàn thực phẩm,
nâng cao đời sống cho người dân và công nhân
tại các khu công nghiệp nói riêng và trên địa bàn
thị xã Dĩ An nói chung trong thời gian tới, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng vệ sinh
an toàn thực phẩm quán ăn tại thị xã Dĩ An,
tỉnh Bình Dương, năm 2013”
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ quán ăn trên địa bàn thị xã Dĩ
An đạt tiêu chuẩn về ATTP (vệ sinh cơ sở, vệ
sinh dụng cụ, vệ sinh bảo quản thực phẩm, vệ
sinh đối với con người).
Xác định tỉ lệ người nấu ăn có kiến thức về:
vệ sinh ngoại cảnh, bảo quản thực phẩm đã chế
biến, kiến thức về vệ sinh cá nhân trong chế biến
thực phẩm, kiến thức về ngộ độc thực phẩm
(nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm và triệu chứng
của ngộ độc thực phẩm).
Xác định tỉ lệ bàn tay người chế biến thức ăn
và mẫu thực phẩm có mức độ ô nhiễm vi sinh
vật đạt theo quyết định số 46/2006/QĐ‐BYT.
Xác định mối liên quan giữa kiến thức của
người chế biến thực phẩm, kết quả xét nghiệm
bàn tay người chế biến thực phẩm, thực trạng an
toàn thực phẩm quán ăn với kết quả xét nghiệm
mẫu thức ăn đã chế biến.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 170
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từ 9/2012 đến 10/2013, tại thị xã Dĩ An, tỉnh
Bình Dương.
Đối tượng nghiên cứu
Các quán ăn có địa điểm cố định trên địa bàn
thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Người trực tiếp chế
biến thực phẩm chính tại các quán ăn trên địa bàn
thị xã Dĩ An. Mẫu thức ăn đã chế biến chuẩn bị
phục vụ cho khách.
Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
Cỡ mẫu bao gồm 400 quán ăn được chọn
theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống
Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được nhập liệu bằng phần mềm
EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata
12.0. Sử dụng các phương pháp thống kê: Tỷ lệ
%, bảng phân phối tần số được sử dụng để mô
tả đơn biến. Sử dụng kiểm định χ2 xác định sự
khác biệt 2 tỷ lệ. Phân tích phân tầng đề tìm các
yếu gây nhiễu hoặc tương tác, dùng mô hình hồi
quy Poisson để xác định mối liên quan và chỉnh
cho các biến số nhiễu hoặc tương tác(1). Ước
lượng mối liên quan bằng số đo kết hợp tỉ số tỉ lệ
mắc (PR).
KẾT QUẢ‐BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu (n=400)
Đa số người nấu ăn tại các quán ăn là nữ
(68,3%), ở độ tuổi từ 35‐54 tuổi (70,3%); có trình độ
học thấp, chủ yếu là cấp 2‐3 (83,5%). Chỉ có khoảng
50% người nấu ăn được tập huấn và khám sức
khỏe định kỳ theo quy định của Bộ Y tế.
Quán ăn có giấy chứng nhận đủ điều kiện
ATTP là thấp (44,3%), có thực hiện xét nghiệm
nguồn nước định kỳ là (41%). Chỉ có 27,5% quán
ăn có sổ theo dõi lưu mẫu thức ăn. Có khoảng
30% quán ăn có hồ sơ nguồn gốc thực phẩm và
có giấy đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
Thực trạng an toàn thực phẩm quán ăn (n=400)
Biểu đồ 1: Điều kiện vệ sinh cơ sở và vệ sinh cá nhân (n=400)
Điều kiện vệ sinh cơ sở
Tỉ lệ quán ăn đạt điều kiện vệ sinh cơ sở là
thấp (41,3%), trong đó chủ yếu là do các quán ăn
chưa có nhà vệ sinh và nơi rửa tay đạt tiêu
chuẩn theo quy định (<61%). Kết quả nghiên cứu
này là thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Bích San, tại Hà Nội, năm 2011 có tỉ lệ đạt vệ
sinh cơ sở là 69,2%(6). Điều này có thể là do,
người nấu ăn và chủ cơ sở thiếu kiến thức nên
chưa nhận thấy tầm quan trọng của nhà vệ sinh
hay cũng có thể là do người chủ các quán ăn
không trang bị đầy đủ các phương tiện rửa tay
vì tốn chi phí. Quán ăn có thùng rác đựng chất
thải và thức ăn thừa có nắp đậy chỉ chiếm 68,5%,
như vậy còn một lượng lớn các thùng rác không
có nắp đậy. Đây là điều kiện để ruồi, gián, chuột
v.v. phát triển, gây ảnh hưởng lớn đến vệ sinh
môi trường nơi chế biến và có khả năng gây ô
nhiễm thực phẩm cao. Trong nghiên cứu này, vị
trí nhà bếp, nhà ăn là điều kiện cũng được các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 171
quán ăn quan tâm nhiều (88%) có thể do đây là
yếu tố mỹ quan nên được các quan ăn quan tâm
nhiều hơn..
Điều kiện vệ sinh cá nhân
Tỉ lệ quán ăn đạt chiếm tỉ lệ thấp (27%), trong
đó chủ yếu là do quán ăn trang bị đầy đủ trang
phục cho người nấu ăn (41%). Điều này có thể là
do chủ quán ăn sợ tốn chi phí nên không trang bị
trang phục cho người nấu ăn, bên cạnh đó một số
người nấu ăn cũng chưa ý thức được tầm quan
trọng của trang phục khi nấu ăn nên thường ngại
không mặc hoặc mặc không đầy đủ. Ngoài tính
mỹ quan, trang phục (nón, tạp dề, khẩu trang,
găng tay.v.v.) là một trong những biện pháp ngăn
ngừa ô nhiễm thực phẩm. Kết quả này cho thấy
cần có giải pháp tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức của người nấu ăn về tầm quan trọng
của trang phục khi nấu ăn và tuân thủ các quy
định về trang phục khi nấu ăn. Các điều kiện về
vệ sinh cá nhân khác như: Không ăn uống hoặc
nhai kẹo cao su trong khu vực nấu ăn, giữa vệ
sinh và cắt ngắn móng tay, không đeo trang sức
chiếm tỉ lệ cao hơn quy định về trang phục, gần
80%. Tuy nhiên, nhìn chung tỉ lệ này vẫn còn
thấp. Trong quá trình chế biến thực phẩm những
quy định nêu trên là một trong những chìa khóa
quan trọng nhằm tránh gây ô nhiễm thực phẩm,
nếu không thực hiện tốt những quy định này thì
vô tình bàn tay, móng tay, trang sức của người
nấu ăn sẽ là trung gian gây ô nhiễm thực phẩm.
Từ những kết quả trên cho thấy, tuy tỉ vệ sinh cá
nhân giữa các nghiên cứu có khác nhau do các
tiêu chí đánh giá có thể không đồng nhất nhưng
cũng đều cho thấy vệ sinh cá nhân của người nấu
ăn hiện nay là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm,
nguyên nhân của tình trạng này là do người nấu
ăn thiếu kiến thức và thực hành vệ sinh cá nhân
trong quá trình chế biến thực phẩm.
Tỉ lệ quán ăn đạt các điều kiện vệ sinh đối
với dụng cụ (89,3%). Điều này cho thấy các quán
ăn đã tuân thủ tương đối tốt các quy định của
pháp luật về vệ sinh đối với dụng cụ, bên cạnh
đó người tiêu dùng cũng ngày quan tâm hơn
đến vấn đề vệ sinh đối với dụng cụ ăn uống
trong quá trình sử dụng thực phẩm, do đó các
quán ăn cũng phải thay đổi để đáp ứng với nhu
cầu của người tiêu dùng.
Bảng 1: Điều kiện vệ sinh dụng cụ
Điều kiện vệ sinh dụng cụ n (%)
Ống đựng đũa, thìa khô, sạch, làm bằng vật
liệu không thấm nước 392 (98)
Bát, đĩa, cốc, đũa, tách được rửa sạch, giữ
khô 391 (97,8)
Có dao, thớt riêng cho thực phẩm sống và
chin 388 (97)
Dụng cụ chế biến sau khi dùng xong được
giữ sạch 383 (95,8)
Đạt điều kiện vệ sinh dụng cụ 357 (89,3)
Bảng 2: Điều kiện bảo quản thực phẩm
Điều kiện vệ sinh bảo quản thực phẩm n
Có tủ kính bày bán thực phẩm 338 (84,5)
Có dụng cụ để hâm nóng thức ăn liên tục 282 (70,5)
Thức ăn đã nấu chín được che đậy nhưng
không dùng vải để che đậy, phủ trực tiếp
trên thức ăn
249 (62,3)
Điều kiện vệ sinh bảo quản thực phẩm 110 (27,5)
Các quán ăn thực hiện đầy đủ các điều kiện
vệ sinh bảo quản thực phẩm đạt là thấp (27,5%),
trong đó chủ yếu là các cơ sở chưa thực hiện tốt
việc che đậy thức ăn sau khi đã nấu chín và thực
hiện hâm nóng thức ăn sau mỗi 2 giờ. Đây cũng
là thực trạng chung của các cửa hàng dịch vụ
kinh doanh thức ăn, uống. Việc không hâm nóng
để hạn chế sự phát triển của vi khuẩn là nguyên
nhân gây ra nhiều vụ ngộ độc tại các bếp ăn tập
thể trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Bên cạnh đó,
các quán kinh doanh ăn uống thường có vị trí sát
đường giao thông do đó mà việc che chắn thức
ăn sau khi đã chế biến là công việc cần thiết và
cần có chương trình tuyên truyền các quán ăn
thực hiện tốt công việc này.
Tỉ lệ quán ăn đạt đầy đủ các điều kiện ATTP
chỉ chiếm 16,8%. Theo quy định của Bộ Y tế thì
những cửa hàng không đảm bảo các điều kiện
an toàn thực phẩm thì không được phép tiếp tục
kinh doanh để bảo vệ sức khỏe cho người tiêu
dùng. Tuy nhiên, trong thực tế phần lớn những
quán ăn là những hộ có thu nhập thấp, kinh tế
gia đình chủ yếu phụ thuộc vào công việc kinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 172
doanh buôn bán này, do đó việc quản lý quán ăn
là công việc rất khó khăn và cần phải có sự hợp
tác của cả người kinh doanh, người tiêu dùng và
các ban ngành đoàn thể có liên quan.
Kiến thức về an toàn thực phẩm của người
nấu ăn (n=400)
Kiến thức đúng về vệ sinh ngoại cảnh:
Người nấu ăn có Kiến thức đúng về vệ sinh
ngoại cảnhchỉ chiếm tỉ lệ 63,3%. Kết quả nghiên
cứu này là thấp hơn so với nghiên cứu của Đào
Thị Hà, tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu, năm 2011
(98,8%)(5). Điều này có thể là do khác biệt về đối
tượng phục vụ. Các quán ăn trên địa bàn thành
phố Vũng Tàu chủ yếu là phục vụ cho khách du
lịch, do đó người nấu ăn quan tâm nhiều hơn
đến điều kiện về vệ sinh ngoại cảnh. Các quán
ăn trên địa bàn thị xã Dĩ An chủ yếu là phục vụ
cho công nhân, lao động có thu nhập thấp do đó
mà người nấu ăn ít có hiểu biết về điều kiện vệ
sinh ngoại cảnh hơn. Bên cạnh đó, Dĩ An là nơi
phát triển mạnh về công nghiệp của tỉnh nên số
lượng quán ăn và người nấu ăn cũng biến động
theo số lượng công nhân và lao động nhập cư,
các quán ăn được hình thành mới ngày càng
nhiều và biến động phức tạp nên cơ quan quản
lý gặp rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý
cũng như tuyên truyền, tập huấn các kiến thức
về an toàn thực phẩm cũng như các văn bản quy
phạm pháp luật cho nhóm đối tượng này.
Kiến thức về bảo quản thực phẩm: Người
nấu ăn biết được cần phải có tủ kính để bảo thức
ăn và bảo quản thức ăn sống chín riêng biết
chiếm tỉ lệ cao (>90%). Tuy nhiên, chỉ có khoảng
75% người nấu ăn biết được cần phải để thức ăn
cách mặt đất ít nhất 60cm và sau 2 giờ cần phải
hâm nóng lại thức ăn, kiến thức đúng về bảo
quản thực phẩm chỉ chiếm tỉ lệ 56%. Kết quả này
là thấp hơn so với nghiên cứu của Đào Thị Hà,
tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu, năm 2011 (97,1%)(5).
Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh
Bình Dương có rất nhiều vụ ngộ độc thực phẩm
là do người nấu ăn và người phục vụ ăn uống
thiếu kiến thức về bảo quản thực phẩm và
nguyên liệu thực phẩm làm cho thực phẩm bị
hư hỏng, biến chất. Bênh cạnh đó, với kết quả
nghiên cứu này thì chỉ có 56% người nấu ăn có
kiến thức đúng về bảo quản thực phẩm thì công
tác tập huấn, tuyên truyền các kiến thức về bảo
quản thực phẩm cho người nấu ăn trên địa bàn
thị xã Dĩ An là vấn đề cấp thiết và phải được
quan tâm nhiều hơn nữa nhằm nâng cao kiến
thức cho người nấu ăn.
Kiến thức về vệ sinh cá nhân: Người nấu ăn
phải thực hiện các quy định về vệ sinh cá nhân
như: Phải có đầy đủ trang phục riêng, giữ vệ
sinh và cắt ngắn móng tay, khám sức khỏe định
kỳ 6 tháng/lần. Kết quả nghiên cứu này cho thấy:
Đa phần người nấu ăn biết được quy định cần
phải cắt ngắn móng tay khi nấu ăn (92,3%). Tuy
nhiên chỉ có khoảng 75% người nấu ăn biết được
cần phải có trang phục riêng khi nấu ăn, các thời
điểm cần phải rửa tay hay cần khám sức khỏe 6
tháng/lần, do đó người nấu ăn có kiến thức đúng
về vệ sinh cá nhân chỉ chiếm tỉ lệ 63,7%. Điều
này cho thấy người nấu ăn đã có hiểu biết về các
quy định đối với người nấu ăn nhưng sự hiểu
biết này là chưa đầy đủ. Người nấu ăn chưa có
hiểu biết đầy đủ về trang phục cũng như cách
thức rửa tay và các thời điểm cần phải rửa tay.
Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do
công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả hay
cũng có thể là do người nấu ăn chưa thật sự ý
thức được tầm quan trọng của việc thực hành vệ
sinh cá nhân trong chế biến thực phẩm. Tuy
nhiên về vấn đề rửa tay, hiện tại các văn bản quy
phạm pháp luật về an toàn thực phẩm cũng
không có văn bản nào có hướng dẫn về cách
thức về rửa tay, cũng như các thời điểm rửa tay.
Các kiến thức này chủ yếu là do tìm hiểu của
giảng viên và truyền đạt lại cho người nấu ăn,
do đó người nấu ăn thiếu nguồn thông tin để
tìm hiểu và thực hành khi cần thiết. Qua những
ghi nhận trên chúng ta thấy được những lỗ hỏng
trong chuỗi kiến thức về vệ sinh cá nhân và nó
cần phải được bổ sung kịp thời, cần được nhấn
mạnh trong nội dung bài giảng nhằm tránh đi
những mối nguy mà những sai sót đó đem lại.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 173
Kiến thức về nguyên nhân gây ngộ độc:
Người nấu ăn thiếu kiến thức về nguyên nhân
gây ngộ độc thực phẩm (45,9%), điều này có thể
là do các kiến thức về nguyên nhân gây ngộ độc
thường là những kiến thức khó, có liên quan
nhiều đến chuyên môn (vi khuẩn, virus, độc tố
v.v.) mà người nấu ăn trong nghiên cứu này đa
phần là người có trình độ học vấn thấp do đó
khả năng tiếp nhận các thông tin về ngộ độc
thực phẩm còn hạn chế. Tỉ lệ người nấu ăn có
kiến thức về triệu chứng về ngộ độc thực phẩm
chiếm tỉ lệ thấp (51,5%). Người nấu ăn chủ yếu
biết đến các triệu chứng về đường tiêu hóa:
Buồn nôn và nôn (93,7%), đau bụng (81,7%).
Kết quả xét nghiệm bàn tay người nấu ăn và
mẫu thức ăn chín (n=400)
Xét nghiệm bàn tay người chế biến
Trong nghiên cứu này đã tiến hành phết tay
và làm xét nghiệm 3 chỉ tiêu: E.coli, Salmonella,
Staphylococcus aureus kết quả cho thấy người nấu
ăn có kết quả xét nghiệm phết tay đạt cả 3 chỉ
tiêu là 87,3%. Trong đó, bàn tay bị nhiễm E.coli là
nhiều nhất, 9%. Tuy nhiên, nhìn chung người
nấu ăn cũng thực hiện tương đối tốt quá trình vệ
sinh tay và nguy cơ ô nhiễm thực phẩm từ bàn
tay người nấu ăn là thấp. Hiện nay có nhiều
nghiên cứu về lĩnh