Tiếp biến văn hoá việt - Chiêm trên vùng thuận hoá qua dấu ấn danh xưng của một vị nữ thần

Miền Trung Việt Nam, xét trong bối cảnh lịch sử- văn hoá Đông Á và Đông Nam Á, là một vùng ñệm trong giao lưu, tiếp biến văn hoá, từ ảnh hưởng hai trung tâm lớn của nhân loại là Trung Hoa và Ấn Độ. Trong vùng ñệm ñó, Ulik (Ô Lý) - Thuận Hoá chính là một bản lề ñặc biệt quan trọng trong diễn trình lịch sửvà mối quan hệViệt - Chiêm. Trải qua thời gian, các hiện tượng văn hoá diễn ra trên vùng ñất này ñã có nhiều biến ñổi, cho nên việc suy xét, lí giải một hiện tượng văn hoá ñến tận căn nguyên, trong trường hợp này là ñiều hoàn toàn không ñơn giản (1) . Trong quá trình ñiền dã, hiện tượng mà chúng tôi thường bắt gặp trên thực ñịa là sựhiện diện phổbiến của ngôi miếu thờThiên Y A Na tại nhiều làng ởvùng Thuận Hoá xưa, tức vùng Trị- Thiên hiện nay. Qua tiếp cận, kếthừa nguồn tưliệu của các nhà nghiên cứu ñi trước, xâu chuỗi và hệthống những dòng sửliệu ít ỏi, góp nhặt những thông tin qua các văn bản, phỏng vấn , có thểxem ñây là một trường hợp ñiển hình cho quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá Việt - Chiêm. Đềcập ñến tín ngưỡng thờThiên Y A Na, tại vùng Huếnói riêng và ñịa bàn miền Trung nói chung, ñã có các công trình, bài nghiên cứu ñược công bố. Mỗi tác giả, nhóm tác giả ñều có cách tiếp cận khác nhau, ñềcập ñến những khía cạnh khác nhau ñối với vịNữThần/Thánh Mẫu này. Phần lớn sựquan tâm ñó ñều tập trung khai thác nguồn gốc, qua các huyền tích, bi kí, và những biểu hiện vềmặt tín ngưỡng thờMẫu tại các am, phổ, ñiện nổi tiếng, nơi thu hút ñông ñảo tín ñồvà người hành hương, hay việc hình thành, cách tổchức, những hoạt ñộng của hội Thiên Tiên Thánh Giáo Đặc biệt, sựtác ñộng/can thiệp mạnh mẽcủa triều ñình (*) Phân Viện Văn hóa Nghệthuật Việt Nam tại Huế. (1) Nhiều nhà nghiên cứu các chuyên ngành Văn hoá, Âm nhạc, Kiến trúc, Ẩm thực, Ngôn ngữ thường viện dẫn một sốbiểu hiện trong các lĩnh vực vừa nêu ởmiền Trung là bắt nguồn, tiếp biến/kếthừa, ảnh hưởng từvăn hoá Champa., nhưng vẫn thiếu cơsởlý giải tường tận Hội thảo Khoa học “Nhận thức vềmiền Trung Việt Nam-Hành trình 10 năm tiếp cận”, Viện Văn hóa Nghệthuật Việt Nam-Phân viện Văn hóa Nghệthuật Việt Nam tại Huế, Huế, ngày 26/07/2009 11 nhà Nguyễn ñến “Ngọc Trản Sơn Từ” tại núi Hương Uyển ñã làm thay ñổi tín tục thờthần, nâng cấp từquy mô làng xã lên cấp quốc gia dưới thời Nguyễn và từ ñó về sau, phát triển thành một trung tâm tín ngưỡng thờMẫu của miền Trung (2) .

pdf15 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp biến văn hoá việt - Chiêm trên vùng thuận hoá qua dấu ấn danh xưng của một vị nữ thần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10 TIẾP BIẾN VĂN HOÁ VIỆT - CHIÊM TRÊN VÙNG THUẬN HOÁ QUA DẤU ẤN DANH XƯNG CỦA MỘT VỊ NỮ THẦN - Lê Đình Hùng (*) Miền Trung Việt Nam, xét trong bối cảnh lịch sử - văn hoá Đông Á và Đông Nam Á, là một vùng ñệm trong giao lưu, tiếp biến văn hoá, từ ảnh hưởng hai trung tâm lớn của nhân loại là Trung Hoa và Ấn Độ. Trong vùng ñệm ñó, Ulik (Ô Lý) - Thuận Hoá chính là một bản lề ñặc biệt quan trọng trong diễn trình lịch sử và mối quan hệ Việt - Chiêm. Trải qua thời gian, các hiện tượng văn hoá diễn ra trên vùng ñất này ñã có nhiều biến ñổi, cho nên việc suy xét, lí giải một hiện tượng văn hoá ñến tận căn nguyên, trong trường hợp này là ñiều hoàn toàn không ñơn giản (1). Trong quá trình ñiền dã, hiện tượng mà chúng tôi thường bắt gặp trên thực ñịa là sự hiện diện phổ biến của ngôi miếu thờ Thiên Y A Na tại nhiều làng ở vùng Thuận Hoá xưa, tức vùng Trị - Thiên hiện nay. Qua tiếp cận, kế thừa nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu ñi trước, xâu chuỗi và hệ thống những dòng sử liệu ít ỏi, góp nhặt những thông tin qua các văn bản, phỏng vấn…, có thể xem ñây là một trường hợp ñiển hình cho quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá Việt - Chiêm. Đề cập ñến tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na, tại vùng Huế nói riêng và ñịa bàn miền Trung nói chung, ñã có các công trình, bài nghiên cứu ñược công bố. Mỗi tác giả, nhóm tác giả ñều có cách tiếp cận khác nhau, ñề cập ñến những khía cạnh khác nhau ñối với vị Nữ Thần/Thánh Mẫu này. Phần lớn sự quan tâm ñó ñều tập trung khai thác nguồn gốc, qua các huyền tích, bi kí, và những biểu hiện về mặt tín ngưỡng thờ Mẫu tại các am, phổ, ñiện nổi tiếng, nơi thu hút ñông ñảo tín ñồ và người hành hương, hay việc hình thành, cách tổ chức, những hoạt ñộng của hội Thiên Tiên Thánh Giáo… Đặc biệt, sự tác ñộng/can thiệp mạnh mẽ của triều ñình (*) Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế. (1) Nhiều nhà nghiên cứu các chuyên ngành Văn hoá, Âm nhạc, Kiến trúc, Ẩm thực, Ngôn ngữ… thường viện dẫn một số biểu hiện trong các lĩnh vực vừa nêu ở miền Trung là bắt nguồn, tiếp biến/kế thừa, ảnh hưởng từ văn hoá Champa..., nhưng vẫn thiếu cơ sở lý giải tường tận Hội thảo Khoa học “Nhận thức về miền Trung Việt Nam-Hành trình 10 năm tiếp cận”, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam-Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, Huế, ngày 26/07/2009 11 nhà Nguyễn ñến “Ngọc Trản Sơn Từ” tại núi Hương Uyển ñã làm thay ñổi tín tục thờ thần, nâng cấp từ quy mô làng xã lên cấp quốc gia dưới thời Nguyễn và từ ñó về sau, phát triển thành một trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu của miền Trung (2). Tuy nhiên, diễn trình tiếp biến và Việt hoá tín ngưỡng Poh Nagar/Poh Inư Nagar thành Thiên Y A Na chưa ñược chú ý một cách ñầy ñủ, bóc tách từng lớp theo lịch ñại. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ nhìn nhận quá trình tiếp biến và Việt hoá ñó, dưới một góc ñộ tiếp cận khác, cụ thể là quá trình Việt hoá danh xưng. Có thể xem các danh xưng ñã ñược Việt hoá ñối với vị nữ thần này là một trong những chìa khóa quan trọng giúp chúng ta nhận diện ñược phần nào quá trình tiếp biến văn hoá ñã từng diễn ra trên vùng ñất Thuận Hoá, và cũng có thể quy chiếu cho cả miền Trung. Từ xa xưa, cư dân cổ sống trên vùng ñất Trung bộ và Nam Trung bộ hiện nay, ñã xây dựng hình tượng Poh Nagar , một vị thần sáng thế, linh ứng và quyền năng, tồn tại ñộc lập bên cạnh hệ thống thần linh mà người Chăm ñã tiếp thu từ mẫu hình của Ấn Độ giáo như: Brahma, Civa, Visnu, và các nữ thần khác Uma, Laskmi, Bhagavati…(3). (2) Đó là những tác giả với các công trình tiêu biểu như: - Nguyễn Hữu Thông [Cb], Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam, Huế: Nxb. Thuận Hoá, 2001. - Nguyễn Hữu Thông et al, Hải Cát: Đất và Người, Huế: Nxb. Thuận Hoá, 2006. - Nguyễn Thế Anh, “Thiên Y Na hay sự tiếp nhận Bà chúa Chăm Pô Nagar của vương triều Nho giáo Việt Nam” Xưa & Nay, số 233 - tháng 4 (2005), 29-33. - Anne-Valérie Schweyer , “Thờ nữ thần Po Nagar ở Nha Trang”, Xưa & Nay, số 233 (4/2005), 26-28. (3) Trước khi có cuộc xâm nhập của những người Aryan, trên lưu vực sông Indus, vào thiên kỉ thứ III trước công nguyên, ở ñây ñã hình thành tín ngưỡng thờ cúng nguyên lí âm, qua các tiểu tượng ñặc biệt là nữ thần mà khảo cổ học “văn minh Indus” hay “văn hoá Harappan” ñã phát hiện. Việc hình thành Ấn Độ giáo (Hinduism) là hình thức tổng hợp của nhiều tín ngưỡng và phương thức thực hành khác nhau trong lối sống cũng như tư duy của người Ấn Độ. Đó là một quá trình hoà hợp những tư duy triết học của những cư dân du mục Aryan xâm nhập với cư dân nông nghiệp bản ñịa và sự hội nhập giữa cư dân vùng Bắc Ấn và Nam Ấn. Ấn Độ giáo phát triển mạnh mẽ sau vài thế kỷ người Aryan du nhập, và có một số cải biến ñược lưu lại qua các bộ kinh. Sự sùng bái ñối với nữ thần trong tín ngưỡng dân gian Ấn Độ ñã có từ lâu, sau khi Ấn Độ giáo phát triển mạnh và nắm luôn cả tín ngưỡng dân gian thì loại tín ngưỡng này càng nổi bật. Biểu hiện rõ nét nhất ñó là việc sùng bái chủ yếu nguyên lí âm, một nửa của thần Civa, với danh xưng Devi Durga. Ấn Độ giáo ñược truyền bá vào những quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á và quần ñảo Indonesia, trong ñó có Trung Bộ và Nam Trung Bộ của Việt Nam hiện nay, ñược xem là sự bành trướng phổ quát của văn minh Ấn Độ, ñược lưu dấu từ những thế kỷ ñầu công nguyên, ñược thúc ñẩy bởi các tu sỹ tháp tùng các thương nhân những người có thể ñã khởi sự những cuộc tìm kiếm thị trường từ những hải cảng ở bờ biển miền ñông Ấn Độ. Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, ảnh hưởng Ấn Độ giáo, chủ yếu tiếp thu phái Civa giáo, họ tôn thờ thần Civa với tập tục kết hợp thần quyền với vương quyền. Trong ñó, yếu tố nữ thần, có thể ñược xem là vợ của thần Civa cũng ñược ñề cao. Tục thờ Poh Nagar của người Chăm, nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương cho rằng: “Nữ thần Bhavagati - một hóa thân nữ tính của thần Civa ñã ñược bản ñịa hóa thành Yang Inư Pô Nagar/Thiên Y - A - Na, bà ñược tôn thờ là thần mẹ - tạo dựng vương quốc Champa”. Còn M. 12 Dưới tác ñộng mạnh mẽ của Ấn Độ giáo, có lúc hình tượng Poh Nagar hoà nhập vào hào quang của vị thần Ấn Độ giáo, một vị thần vĩ ñại ñược hình dung dưới hình hài của Bhagavati Uma, một hoá thân hoặc là một nửa âm tính của thần Civa (4). Nhưng chung quy vị nữ thần này vẫn là Bà Mẹ Xứ Sở (5), người bảo vệ và ñem hạnh phúc cho vùng ñất, ngự trị một cách bền vững trong tâm thức của nhiều lớp cư dân người Chiêm sinh cư trên vùng ñất miền Trung, trong vương quốc ñược gọi là Chiêm Thành (6). Gioocgio Maspero cho rằng: “Vợ của Civa ñược thờ riêng, khi thờ người ta gọi bà là Bhagavati, hình như là dưới danh hiệu có người ta thờ một vị thần bản ñịa thường ñược gọi là Yan Pu Nagara”. Và, “... người Chàm thờ Bhagavati, ‘vị quốc mẫu’, ở Po nagar tại Nha Trang, thì có lẽ họ tiếp tục thờ dưới hình thức một tôn giáo rất cổ mà họ ñã quên lâu rồi”. Xem thêm George Michell , Đền - tháp Hindu, Xuân Kỳ biên dịch, H: Viện bảo tồn di tích, 2003, 23-29; Trần Kỳ Phương, “Di sản nghệ thuật Champa tại miền Trung Việt Nam”, 2001; M. Gioocgio Maspero, Vương quốc Chàm, Lê Tư Lành dịch từ bản Pais và Bruy-Xen, Nhà xuất bản G.Văng-Cet, 1928, 10, 12. Xét về nguồn gốc “pô Nư-gar” (Poh Nagar), có thể xem thêm Bố Thuận và Nguyễn Khắc Ngữ, “Thượng cổ sử Chiêm Thành” Việt Nam khảo cổ tập san, S: Nhà sách khai trí, 1962, 200-203. (4) Trong Ấn Độ giáo có vô số Nam thần và Nữ thần ñược lưu truyền qua thần thoại và ñược thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật. Tục thờ Mẫu thần hay Nữ thần thường ñược kết hợp với thờ Civa và Vishnu, ñặc biệt là những vị Nữ thần vợ của thần Civa. Nữ thần ñược xem là “hoá thân sức mạnh của Nam thần, vì vậy còn gọi là quyền năng. Nữ thần là Mẹ của tất cả, cưu mang nuôi dưỡng trẻ thơ, là yếu tính mẫu hệ, nguồn nước sự sống và là hoa sen nở rộ” (George Michell, Đền - tháp Hindu, 39). (5) Hình tượng Poh Nagar ñược tôn xưng với nhiều danh hiệu ñược phiên âm latin như: Poh Inư Nưgar, Poh Inư Nagar, Yang Inư Pô Nagar, Pô Yan Inư Nưkar, Pô Yan Inư Nưkar Taha (Thần Mẹ xứ sở vĩ ñại), Muk Juk (Bà Đen)… Sự khác biệt trong cách phiên âm ñó, không có gì quan trọng, bởi chung quy, tất cả ñều chỉ ñịnh một vị thần mang ý nghĩa chung nhất: Bà Mẹ Xứ Sở. Những danh xưng trên ñược các tác giả khai thác từ sự tích, huyền tích, bi ký và các bài ca dâng cúng của người Chăm (Xem thêm Nguyễn Hữu Thông [Cb], Tín ngưỡng thờ Mẫu, 18 - 24). Những dấu tích ñể ghi nhận sự hiện diện của Poh Nagar trong ñời sống tín ngưỡng của cư dân cổ sống ở miền Trung, ñến nay rõ nét ở khu vực thuộc hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà. Còn ở Quảng Trị, Thừa Thiên không có một ñền tháp nào còn lại ñể cho chúng ta thấy cổ tục thờ Poh Nagar của người tiền trú. Điều này có thể: (1) Sự lan toả tầm ảnh hưởng của Poh Nagar từ phía Nam ra vùng cực bắc Champa, chứ vùng Ulik không phải là nơi khởi phát tín ngưỡng; (2) Người Việt tiếp nhận vùng Thuận Hoá từ rất sớm nên quá trình Việt hoá ñã làm nhạt dần các dấu tích thờ Poh Nagar của người tiền trú. Các nghiên cứu về Thiên Y A Na ñều thống nhất tục thờ vị thần này của người Việt bắt nguồn từ tục thờ Poh Nagar của người Chăm, nên những khảo cứu về cổ tục này ñều tập trung khai thác ở ñịa bàn sinh sống của người Chăm, trong ñó có di tích nổi tiếng là Tháp Bà (Nha Trang). (6) Nước (quốc) Chiêm Thành xuất hiện trong các văn bản của Trung Quốc nhằm chỉ vùng ñất từ phía nam ñèo Ngang ñến giáp Nam bộ của Việt Nam hiện ñại, tồn tại trong khoảng thời gian từ năm 886 - 1471. Trong ñó song hành tồn tại của nhiều tiểu quốc trên ñịa bàn miền Trung. Về diên cách ñịa lý có thể bị biến ñộng, khi một tiểu quốc nào ñó trở nên cường thịnh bao trùm lên các tiểu quốc khác, hoặc có sự suy vong của một vài tiểu quốc nào ñó. Do vậy, từ “Nagar” có thể hiểu là xứ sở, lãnh thổ, vùng ñất, vương quốc… tuỳ theo từng thời ñiểm lịch sử cũng như các cộng 13 Người Việt tiếp cận với một vị nữ thần có nguồn gốc Chiêm Thành, có thể ñây chính là Poh Inư Nagar, từ rất sớm trong lịch sử, ñược ghi nhận từ cuộc nam chinh năm 1069 của Lý Thánh Tông, qua Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên, viết năm 1329 (7). Câu chuyện ñược xem như một dạng thần tích, có một số chi tiết ñáng ñược chú ý: Trong lúc mưa to, gió lớn, sóng cuộn ầm ầm, nhà vua bàng hoàng lo sợ thì bỗng thấy một người con gái ước ñộ hai mươi tuổi, mặt tựa hoa ñào, mày ñậm màu dương liễu, mắt sáng như sao, miệng cười như hoa nở; nàng mặc áo trắng quần lục, lưng mang ñai, dịu dàng bước ñến bạch với vua rằng: Thiếp là tinh của ñại ñịa Nam quốc thác cư ở làng Thuỷ Vân ñã lâu lắm, xem thời mà ra nếu gặp ñược lúc tốt. Bây giờ gặp ñược Long nhan, chí nguyện bình sinh ñược thỏa, cúi xin bệ hạ ñi chuyến này hết sức mẫn cán, toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy phận liễu mong manh cũng nguyền ñem sức mọn mặc nhiên phù tá Bệ hạ; ngày khải hoàn, thiếp xin chực ở ñây ñể bái yết... Người con gái ứng hiện ñó ñược Lý Thánh Tông lập hiệu là Hậu Thổ Phu Nhân, ñặt hương án trong ngự thuyền... Thắng trận trở về Thăng Long vị vua này lại cho “xây ñắp ñàn thờ ở làng An Lãng”, sau ñó rước thần Hậu Tắc phối với Trời, Hậu Thổ phối với Đất, lập ñàn thờ ở Nam Giao cầu ñảo. Niên hiệu Trùng Hưng năm ñầu, sắc phong Hậu Thổ Địa Kỳ Nguyên Quân. Năm thứ tư, gia phong hai chữ Nguyên Trung. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong bốn chữ Ứng Thiên Hoá Dục. Hậu Thổ Phu Nhân ñược tác giả của Việt Điện U Linh Tập xếp vào mục “hạo khí anh linh”, khi ñã hội nhập vào hệ thống thần linh của người Việt, với danh hiệu ñầy ñủ Ứng Thiên Hoá Dục Nguyên Trung Hậu Thổ Địa Kỳ Nguyên Quân Trong phần Tiếm bình tác giả có viết: “Còn chiếu phụng bao phong các chữ ñó thì kín ñáo, duy hai chữ Nguyên Trung không hiểu làm sao” (8). Ở ñây chúng ta có thể nhận ra dấu ấn “kín ñáo” qua danh hiệu Hậu Thổ Địa Kỳ Nguyên Quân ( 君?在?圻伊圻妙凡成 君?) khá tương khớp về ý nghĩa của Poh Inư Nagar. Còn Ứng Thiên Hoá Dục, là chữ ñồng cư dân sinh sống trong một vùng ñất ñã thờ phụng Poh Nagar, vị thần bảo bọc và ban hạnh phúc cho vùng ñất ñó. Còn trong bài viết này, chúng tôi dùng từ người Chiêm (Chiêm nhân) ñể chỉ thị những cộng ñồng sống trong ñịa vực nước Chiêm Thành. Danh từ Chiêm nhân, xuất hiện trong các văn bản cổ, nên hiểu ñây là một từ phiếm xưng ñể chỉ bộ phận cư dân “phi Việt” sống trên ñất Chiêm Thành, trong ñó có cả cư dân Malayo - Polynesia, Mon - Khmer, Việt - Mường… (7) Lý Tế Xuyên, Việt ñiện u linh tập, Lê Hữu Mục dịch, 1959, 71-72 (ttp://www.lichsuvietnam.info). (8) Ibid., 14 phong tặng thêm thể hiện ñức tính của Địa (Đất), ñược khái quát trong khái niệm “Khôn” của “Dịch” mà một cách biểu hiện ñó là hình tượng “Mẫu”. Câu chuyện trong thần tích là một dạng thức linh hiển của Poh Inư Nagar, mà chúng ta còn bắt gặp trong nhiều thần tích khác của thần linh ñất Việt. Bà Mẹ Xứ Sở từ một vị thần Chiêm ñã ñược người Việt tiếp thu thờ phụng dưới dạng thổ thần, mang lớp áo nữ thần. Tục thờ thổ thần của người Việt chịu ảnh hưởng từ tục thờ thổ thần/ñịa mẫu thần của Trung Quốc, có thể ñược du nhập vào thời Bắc thuộc, nhưng ở trường hợp này người Việt ñã khoác vào một lớp áo văn hoá Việt, và gốc tích của thần không phải từ Trung Hoa. Trong một chừng mực nào ñó, có thể nhìn nhận, việc trợ giúp của thần cho Lý Thánh Tông chinh phạt phương Nam, sau ñó ñược ñưa về Thăng Long thờ phụng, không chỉ ñơn thuần là việc bổ sung thần linh vào hệ thống thần linh ñất Việt, mà còn hàm chứa một mưu ñồ chính trị, ít nhiều cũng làm an ổn cho hàng ngàn chiến tù người Chiêm ñược ñưa về an trí trên ñất Việt (9). Mẫu hình tiếp nhận Poh Inư Nagar ở vùng Thuận Hoá, cũng như Đàng Trong/Nam Hà lại hoàn toàn khác, không như nguyên mẫu ñược ñưa về Thăng Long bởi một vị nguyên thủ quốc gia, hay một sự áp ñặt ñối với dân chúng từ phía triều ñình, mà nó ñược nảy sinh trong quá trình cộng cư, giao lưu văn hoá giữa người Việt thiên di về nam với người tiền trú (Chiêm nhân), những kẻ ở lại tiếp tục sinh cư trên vùng ñất này, diễn ra trong một thời gian dài. Trong tác phẩm Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Li Tana ñã có nhận xét xác ñáng liên quan trực tiếp ñến vấn ñề hội nhập văn hoá giữa người Việt với người bản ñịa (10). Nó không chỉ ñúng cho thế kỉ XVII và XVIII mà cả cho các thế kỷ trước, nhất là ñối với vùng Ô châu, nơi tiếp xúc sớm giữa người Việt với người Chiêm (cư dân vùng Ulik/Ô - Lý), ñược ñánh dấu bằng một sự kiện lịch sử, vào năm 1306: cuộc hôn nhân lịch sử của Huyền Trân công chúa với món quà sính lễ ñặc biệt. (9) Cụ thể trong cuộc chinh phạt này “… bắt ñược Chế Củ và dân chúng 5 vạn người” (Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, H: Nxb. KHXH, 1998, tập I, 274-275. (10) “Tiến xuống phía nam, người Việt ở Đàng Trong ñã tiếp xúc chặt chẽ với các dân tộc ñịa phương thuộc các nền văn hoá khác biệt. Đứng ñầu trong số các dân tộc này là người Chăm. Các di dân người Việt ñã tiếp nhận và thích nghi một cách thoải mái nhiều yếu tố của nền văn hoá Chăm trong một quá trình dài vay mượn có chọn lọc cái mới và loại bỏ cái cũ không còn phù hợp nơi vùng ñất mới” (Li Tana, Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, [Nguyễn Nghị dịch], Tp HCM: Nxb Trẻ, 1999, 192). 15 Cuộc “nam tiến” của người Việt vào vùng Thuận Hoá, không phải là quá trình ñiền thế cư dân, khi vùng ñất này người Chiêm ñã bỏ trống ñể di trú ñến nơi khác hay dịch chuyển dần về phương Nam (11), mà ñó là hiện tượng xen cư, cộng cư giữa người Việt với người bản ñịa, những người tiếp tục ở lại sinh sống trên vùng ñất này. Cùng sinh cư trên một vùng ñất, quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá xẩy ra là tất yếu của lịch sử. Rõ ràng người Việt ñã tiếp thu nhiều yếu tố văn hoá bản ñịa, thậm chí còn bị ñồng hoá khi họ còn là những bộ phận người thiểu số, ñể rồi sau ñó Việt hoá trở lại ñối với cư dân còn ở lại trên vùng ñất này, khi những cuộc thiên di về nam của người Việt ngày một ñông hơn. Hiện tượng cùng nhau chia xẻ lĩnh vực siêu linh, cùng nhau thờ Poh Inư Nagar ñể rồi Việt hoá vị nữ thần này, theo phong tục của người Việt, cũng không phải là trường hợp biệt lệ. Trên thực tế, từ xa xưa cho ñến hiện tại, người Việt có xu hướng thờ ña thần, thờ tất cả những gì mà họ cho là linh ứng, bất luận hung thần, ác thần, tà thần hay phúc thần, ma/quỷ, thậm chí kể cả thổ, mộc, thạch… tà, tinh, ôn, hoàng, dịch, lệ… với mục ñích cầu an, cầu phúc hay ít ra có thể lánh hoạ. Thái ñộ của người Việt ñối với thế giới vô hình, siêu linh có thể khái quát trong hai từ: “Kính” và “Sợ”. Nếu họ không chấp nhận thờ phụng một cách cung kính, thì thái ñộ phản ñối cũng rất ít xẩy ra. Chính ñiều “sợ” mà người Việt không ñến mức cực ñoan ñối với bất cứ ñối tượng ñược thờ cúng nào, kể cả những ñối tượng thờ cúng của người tiền trú ñể lại trên vùng ñất mà người Việt mới ñến lập làng, ñịnh cư. Đối với các vị thần của Ấn Độ giáo như Brahma, Civa, Visnu, Uma, Laskmi, Saravasti… ñược thờ trong các ñền tháp Champa, người Việt thiên di hoàn toàn quá xa lạ. Rõ ràng, những gì tồn tại trên nền tảng Ấn Độ giáo khó ñược người Việt chấp nhận nguyên mẫu ñể thờ phụng, khi họ ñã quen với nếp nghĩ thiên về Tam giáo ảnh hưởng từ Trung Hoa. Họ “kính nhi viễn chi” với những tháp gạch, các tượng thờ, nhiều di vật khác của người tiền trú. Để thờ cúng các ñối các ñối tượng này, người Việt ñồng hoá hầu hết các dạng thức biểu hiện, qua các di vật của Ấn Độ giáo thành nữ thần, với tên gọi dân gian (11) Như cách khuyến mộ/phủ dụ di dân từ phía phía triều ñình: “尋?在?朝?弘?商?議輝 無?已?圻伊君? 伊?已?君? 凡?成?春?民?無?朝?尋?屈?田伊產?募?許俟天?伊?屈俟處玉耕?破募縣演竞?俟?成?春雨 起?徵?” [Đến lúc, nhân triều ñình bàn bạc: Đất Ô châu người Chiêm ñã bỏ ñi, tất cả dân của ta không có gia cư ñiền sản, chiêu mộ ñược nhiều người ñến ñó canh phá tụ hợp lập làng sau thành số sẽ khởi trưng] (Bùi Trành, Thuỷ thiên, tờ 4a, (bản gốc hiện ñược lưu giữ tại Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị do Bùi Hữu Xích phụng thủ, 1891, Lê Đình Hùng dịch). 16 chung là Bà(12). Tuỳ từng ñịa phương, từng hoàn cảnh cụ thể mà các nữ thần ñược gọi bằng những tên như: Bà Giàng/Dàng hay Bà Dương, Bà Lồi. Còn tại những ñịa ñiểm có những di tích, di vật của người tiền trú, người Việt ñã dựng lên những ngôi miếu thờ biến “một bumông (ñền thần Chàm) ñã trở thành ñền miếu Việt” (13) và xứ ñất có những di tích này ñược gọi là xứ Cồn Giàng/Dàng hay Cồn Dương. Cách gọi ñó vẫn ñược người Việt duy trì cho ñến thời hiện ñại. Đây ñược xem là một hiện tượng Việt hoá khá phổ biến tại vùng Thuận Hoá (14). Một xu hướng Việt hoá khác ñối với những di tích của người tiền trú, nơi thờ phụng những vị thần của Ấn Độ giáo, là tại những ñịa ñiểm này ñược người Việt chuyển ñổi thành những chùa thờ Phật. Qua ñiền dã chúng tôi nhận thấy một số ngôi chùa cổ khác tại ñịa bàn tỉnh Quảng Trị ñược xây dựng trên nền cũ của những tháp Chăm như: Đông Lâm tự, Hoan Sơn tự (Hải Thiện - Hải Lăng); Chùa Phật Lồi (Triệu Thượng - Triệu Phong); Bình Trung tự (Do Châu - Do Linh)… Và, cho ñến hiện nay chúng ta vẫn có thể sở thị những di vật của Champa ñược thờ trong nhiều ngôi chùa ở vùng Thuận Hoá. Trường hợp tiêu biểu cho quá trình chuyển hoá này, ñó là việc tái thiết chùa Thiên Mụ vào năm 1601, liên quan ñến truyền thuyết về “Bà Trời áo ñỏ”. Câu chuyện không chỉ ñược người dân vùng Huế vẫn lưu truyền, mà còn ñược ghi lại trong chính sử triều Nguyễn (15). Truyền thuyết này, có thể ñặt lại một giả thiết, phải chăng ñịa ñiểm ñồi Hà Khê trước ñây là nơi thờ phụng một vị thần nào ñó của Ấn Độ giáo hay Yang Inư Poh (12) Có thể người Việt ñã chuyển hoá âm /pô/ - cách phát âm của người tiền trú - thành Bà. (13) Tạ Chí Đại Trường, Thần Người và Đất Việt, H: Nxb. VHTT, 2006, 206-207. (14) Như trường hợp Miếu Quảng Tế ở làng Phước Tích (Phong Hoà, Phong Điền, Thừa Thiên Huế) di vật còn lại lại là một dạng Siva Linga; còn miếu Bà Dàng ở làng Câu Hoan (Hải Thiện, Hải Lăng, Quảng Trị), trong miếu thờ một Mukha Linga, có hình ñầu của một Nam thần nh