Tiếp xúc văn hóa Việt Nam - Ấn Độ

Đông Nam Á là một khu vực lịch sử văn hoá, có nền tảng chung từ thời tiền sử, được sản sinh và phát triển trong một môi trường sinh thái tự nhiên xã hội của khu vực. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước được phân bố từ bờ Nam sông Dương Tử đến Đông Bắc Ấn Độ sang cả châu Đại Dương. Trên cơ sở tầng văn hoá chung đó qua tiếp biến với những nền văn hoá khác, đặc biệt là tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ và Trung Quốc đã tạo thành những nền văn hoá quốc gia khác nhau. Tất cả đã tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng của văn hoá khu vực. Việt Nam – một quốc gia ở Đông Nam Á cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Ấn Độ là một quốc gia có nền văn minh cổ xưa phương Đông. Ấn Độ được biết đến như là xứ sở của tăng lữ và vũ nữ. Đất nước Ấn Độ trải qua mấy nghìn năm tôi luyện và hoà hợp, kết tụ và phát triển, đã trở thành một dân tộc vĩ đại tràn đầy sức sống trong cộng đồng các dân tộc thế giới. Văn hoá Ấn Độ là nền văn minh độc lập sừng sững tại phía Đông thế giới với một dáng vẻ riêng biệt của mình. Đương nhiên trong quá trình phát triển lịch sử, Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy không vì thế mà biến khu vực này thành khu vực “Hán hoá” hay “Ấn Độ hoá” mà nó đã lựa chọn những gì thích hợp, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình chứ không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ. Việt Nam đã tiếp thu ở văn hóa Ấn Độ những nét đặc sắc nhất, đồng thời hòa quyện vào những gì đang tồn tại trong chính nền văn hóa bản địa của mình. Từ đó đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng và phong phú. Để góp phần tìm hiểu thêm sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Tiếp xúc văn hóa Việt Nam - Ấn Độ” để làm đề tài nghiên cứa của mình.

doc26 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6743 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiếp xúc văn hóa Việt Nam - Ấn Độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đông Nam Á là một khu vực lịch sử văn hoá, có nền tảng chung từ thời tiền sử, được sản sinh và phát triển trong một môi trường sinh thái tự nhiên xã hội của khu vực. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước được phân bố từ bờ Nam sông Dương Tử đến Đông Bắc Ấn Độ sang cả châu Đại Dương. Trên cơ sở tầng văn hoá chung đó qua tiếp biến với những nền văn hoá khác, đặc biệt là tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ và Trung Quốc đã tạo thành những nền văn hoá quốc gia khác nhau. Tất cả đã tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng của văn hoá khu vực. Việt Nam – một quốc gia ở Đông Nam Á cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Ấn Độ là một quốc gia có nền văn minh cổ xưa phương Đông. Ấn Độ được biết đến như là xứ sở của tăng lữ và vũ nữ. Đất nước Ấn Độ trải qua mấy nghìn năm tôi luyện và hoà hợp, kết tụ và phát triển, đã trở thành một dân tộc vĩ đại tràn đầy sức sống trong cộng đồng các dân tộc thế giới. Văn hoá Ấn Độ là nền văn minh độc lập sừng sững tại phía Đông thế giới với một dáng vẻ riêng biệt của mình. Đương nhiên trong quá trình phát triển lịch sử, Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy không vì thế mà biến khu vực này thành khu vực “Hán hoá” hay “Ấn Độ hoá”… mà nó đã lựa chọn những gì thích hợp, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình chứ không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ. Việt Nam đã tiếp thu ở văn hóa Ấn Độ những nét đặc sắc nhất, đồng thời hòa quyện vào những gì đang tồn tại trong chính nền văn hóa bản địa của mình. Từ đó đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng và phong phú. Để góp phần tìm hiểu thêm sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Tiếp xúc văn hóa Việt Nam - Ấn Độ” để làm đề tài nghiên cứa của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Nghiên cứu về văn hóa Việt Nam là đề tài đã nhận được khá nhiều sự quan tâm của các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Mỗi tác giả đã đi vào nghiên cứu khía cạnh này hay khía cạnh khác với nhiều nghiên cứu có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Vấn đề tiếp xúc văn hóa mà đặc biệt là tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam - Ấn Độ cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam - văn hóa Ấn Độ được đề cập đến ở một số công trình nghiên cứu như “ Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á” của tác giả Phạm Đức Dương, nhiều tạp chí chuyên nghành về dân tộc và văn hóa… Tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu về vấn đề này vẫn còn khá khiêm tốn. 3. Đóng góp của đề tài Đây là đề tài nghiên cứu khá toàn diện về sự tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam - Ấn Độ ở nhiều khía cạnh khác nhau. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc phục dựng lại sự tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Việt Nam - Ấn Độ. Qua đó góp thêm một nguồn tư liệu nhằm giúp cho việc nghiên cứu văn hóa dân tộc cũng như sự những ai quan tâm đến vấn đề này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đây là đề tài nghiên cứu về sự tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam với Ấn Độ nên đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nền văn hóa của 2 nước và cụ thể hơn đó chính là sự tiếp xúc văn hóa giữa hai quốc gia Việt Nam và Ấn Độ. Phạm vi nghiên cứu của đề tài đó là sự tiếp xúc văn hóa của 3 tiểu vong quốc Đại Việt, Champa, Phù Nam với nền văn hóa Ấn Độ trong suốt chiều dài lịch sử. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối của nhà nước về văn hóa. Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, thống kê, thu thập tài liệu, tổng hợp và nhiều phương pháp nghiên cứu liên nghành khác. 6. Bố cục đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo được chia thành hai chương cơ bản: Chương I: KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HAI QUỐC GIA ẤN ĐỘ, VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ Chương II: TIẾP XÚC VĂN HÓA VIỆT NAM – ẤN ĐỘ Đây là đề tài nghiên cứu về một vấn đề lớn của văn hoá Việt Nam, trải dài lịch sử Việt Nam xuyên suốt quá trình lịch sử của dân tộc; chính vì thế chắc chắn sẽ không thể tránh những thiếu sót. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp trên tinh thần xây dựng của cô và toàn thể các bạn. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HAI QUỐC GIA ẤN ĐỘ, VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ 1.1. Vị trí địa lý và sự hình thành quốc gia Ấn Độ Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ có ranh giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích. Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh. Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc Anh. Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi, người được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng Anh đã quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu là Ấn Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm hai phần: phần phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía tây gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này cách nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ. Lãnh thổ Ấn Độ chiếm một phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ, nằm trên Mảng kiến tạo Ấn Độ (India Plate), phần phía bắc Mảng kiến tạo Ấn - Úc, phía nam Nam Á. Các bang phía bắc và đông bắc Ấn Độ nằm một phần trên dãy Himalaya. Phần còn lại ở phía bắc, trung và đông Ấn gồm đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu. Ở phía tây, biên giới phía đông nam Pakistan, là Sa mạc Thar. Miền nam Bán đảo Ấn Độ gồm toàn bộ đồng bằng Deccan, được bao bọc bởi hai dãy núi ven biển, Tây Ghats và Đông Ghats. 1.2. Vị trí địa lý và sự tồn tại các tiểu vong quốc trên lãnh thổ Việt Nam 1.2.1. Đại Việt Một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến vùng Thanh Hóa. Nhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam Thục Phán sau khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất của mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây-Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh) Đến thời bắc thuộc, lãnh thổ của dân tộc Việt trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Champa và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Champa thường lấy lại được. Ranh giới lãnh thổ về phía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện. Đến thời phong kiến tự chủ, sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ năm 905, Đại Việt bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. Đại Việt chính thức vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938. Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt, sau đó Lý Thánh Tông đổi tên nước lại là Đại Việt năm 1054. Lãnh thổ Đại Việt thời kỳ đầu độc lập bao gồm khu vực Bắc Bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, tương đương với lãnh thổ cũ nước Văn Lang của các vua Hùng Trong quá trình tồn tại của mình, các triều đại phong kiến của Việt Nam liên tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Năm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh Champa và bắt được vua Champa là Chế Củ (Jaya Rudravarman) về Thăng Long. Để được tha vua Champa đã cắt vùng đất phía bắc Champa gồm ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý cho Đại Việt, phần đất mà ngày nay là tỉnh Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Năm 1306 vua Chế Mân (Jaya Simhavarman) của Champa cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, vùng đất mà ngày nay là nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân. Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đưa 20 vạn quân tiến đánh vào kinh đô Vijaya (Bình Định) của Champa, kinh đô Vijaya bị thất thủ. Lê Thánh Tông đã sát nhập vùng đất bắc Champa vào Đại Việt (ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đất còn lại của Champa vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vương quốc và giao cho tướng, hoàng thân còn lại của Champa trấn giữ và có nghĩa vụ triều cống Đại Việt. Đến năm 1471 lãnh thổ phía nam của Đại Việt tiến đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay). Thời kỳ Trịnh, Nguyễn phân tranh do áp lực tấn công của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hành những đợt nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đại Việt chưa từng thấy. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng tiến chiếm vùng đất của Champa mà ngày nay là Phú Yên. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Champa. Năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sát nhập phần còn lại của vương quốc Champa là Bình Thuận, Ninh Thuận, tuy nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho đến năm 1832. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn lập dinh, chia trấn, bổ nhiệm quan lại chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản. Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm và sát nhập vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre. Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Khoát đánh bại đã dâng vùng đất Tân An, Gò Công để cầu hòa. Năm 1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận dâng vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng để được chúa Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công của Xiêm La, vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn. Đến đây, có thể thấy lãnh thổ của quốc gia Đại Việt có một sự hình chỉnh như ngày nay. 1.2.2. Chămpa Vương quốc Chămpa, bao gồm các quốc gia Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), độc lập được từ 192 và kết thúc vào 1832. Trước thế kỷ thứ 2, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian). Chăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Tuy nhiên, nhà nước này cũng không tránh khỏi thảm hoạ diệt vong. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam. 1.2.1. Phù Nam Phù Nam là tên một quốc gia cổ trong lịch sử Việt Nam, xuất hiện khoảng đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Malaixia. Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17 - thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay. Thủ đô của Phù Nam, theo sách Tân Đường thư là thành Đặc Mục, tiếng Phạn là Vyadhapura (có nghĩa là thành phố của những người đi săn), gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay. Về nguồn gốc của Phù Nam, theo Khang Thái, sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quí tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên Kaunđinya (sách Trung Quốc gọi là Hỗn Điền) Truyền thuyết kể ông ta từ miền Đông Ấn Độ mang theo một chiếc nỏ thần và một đạo quân hơn ngàn người vượt biển sang đánh chiếm xứ Koh Thlok. Công chúa xứ này là Sôma (con gái của thần mặt trăng - sách Trung Quốc gọi là Liễu Diệp), con vua Naga, đã chống cự lại kẻ xâm lược. Nhưng sau khi bị nỏ thần bắn thủng nhiều chiến thuyền, nàng công chúa đành phải đầu hàng và thuận để cho Kaunđinya lên ngôi vua, lấy mình làm vợ; rồi sinh ra dòng dõi vua chúa thống trị xứ Koh Thlok, sau này lấy tên là Phù Nam. Mặc dầu là truyền thuyết, nhưng ít nhiều nó cũng phản ảnh một thực tế lịch sử: Người Khơme vẫn coi Kaunđinya là người sáng lập ra đất nước và đã đem đến cho họ một nền văn hóa mới. Nhờ vị vua này, phụ nữ biết cách ăn mặc che thân, biết ngôn ngữ, văn tự Sanskrit (tiếng Phạn), tôn giáo Ba-la-môn, luật pháp Ấn Độ cùng chế độ chính trị xã hội thịnh hành ở Ấn Độ thời bấy giờ...[4] Căn cứ theo các sử liệu Trung Hoa, thì từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 6, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế lớn mạnh. Đấy là vào thời Phạm Sử Nan (tức Fan-che-nan, hay Phan Chế Mân; trị vì khoảng năm 205 đến 225). Đây là một bộ tướng, nhân cơ hội vua (thuộc dòng dõi Hổn Điền) mất, được dân tôn lên thay, đã liên tục thôn tín hơn 10 nước, mở rộng lãnh thổ đến 5, 6 nghìn dặm, bao gồm các nước như: Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát Miệt (sau này là Chân Lạp)...Những tiểu quốc này đều nằm trên bán đảo Mã Lai và một phần vùng hạ lưu sông Mê Nam. Vương quốc Phù Nam phát triển hưng thịnh một thời gian nhất định rồi cũng không tránh khỏi sự suy tàn Khái quát lại giai đoạn suy tàn này, sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 20) viết: Sau một thời rực rở, đế quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ thứ 6. Nước Cát Miệt, một thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ này đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập và hùng mạnh. Nhân sự suy yếu của Phù Nam, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy một phần lãnh thổ (tương đương với vùng đất Nam Bộ Việt nam ngày nay) của đế chế này vào đầu thế kỷ 7... Sách Tùy thư chép tương tự: Nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam. Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Ký biên soạn cũng đã cho biết đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); trong nước Phù Nam có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na. Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên có thể suy ra nước Phù nam bị tiêu diệt phải sau năm này. CHƯƠNG II TIẾP XÚC VĂN HÓA VIỆT NAM – ẤN ĐỘ Quan hệ văn hóa của Việt Nam với Ấn Độ - một nền văn hóa lớn ở châu Á đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng ngàn năm. Khởi đầu từ xa xưa, mối quan hệ bang giao tốt đẹp ấy liên tục phát triển cho đến ngày nay. Đạo Phật đến với Việt Nam từ rất sớm, trở thành quốc giáo ở thời Lý – Trần (thế kỷ X-XIV) và là một tín ngưỡng có tính chất dân gian ở Việt Nam, tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần văn hóa của người Việt Nam. Khác với tất cả các nước trong khu vực, Việt Nam không được các học giả phương Tây xếp vào thế giới Ấn Độ hóa, nên họ rất xem nhẹ vấn đề này. Tuy nhiên, xét trên toàn bộ sự phát triển của van hóa Việt Nam thì văn hóa Ấn Độ đã thẩm thấu vào Việt Nam bằng nhiều ngả đường và khá liên tục trong mối quan hệ đối trọng với văn hóa Trung Hoa. Sự hội nhập văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trên cơ tầng Đông Nam Á ở Việt Nam đã làm cho nền văn hóa đa sắc tộc ngày càng thêm đa dạng và góp phần tạo nên sự ổn định xã hội, và văn hóa – một nhu cầu rất quan trọng của cư dân nông nghiệp lúa nước. Khác với Trung Hoa có đường biên giới trên bộ với Việt Nam, Ấn Độ không có sự tiếp giáp trực tiếp với Việt Nam, nhưng nền văn hóa Ấn Độ lại có sự ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam. Trên nhiều bình diện, văn hóa Ấn Độ “thẩm thấu” bằng nhiều hình thức và liên tục. Khi xem xét mối quan hệ, giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và Ấn Độ, cần thấy, quá trình mức độ của quan hệ giao lưu này có khác nhau qua các thời kỳ lịch sử và các không gian văn hóa. Trong giai đoạn đầu của thiên niên kỷ đầu sau công nguyên, trên dải đất Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: văn hóa Đại Việt ở phía Bắc, Chămpa ở Trung Bộ, và Phù Nam ở Nam Bộ. Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của văn hóa Ấn Độ với ba nền văn hóa này có khác nhau. Trước công nguyên, nguyên nhân thúc đẩy người Ấn Độ thông thương buôn bán với cư dân Đông Nam Á, trong đó có cư dân của ba nền văn hóa trên là việc buôn bán vàng, sau khi việc buôn bán với thế giới La Mã bị cấm. Người Ấn coi Đông Nam Á trong đó có đất Việt là nơi có nhiều hương liệu, gia vị (sa nhân, quế, hồi…) cho nên những thương gia Ấn Độ tìm đường tới Đông Nam Á, hoạt động có tính chất thương mại này đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế các vùng đó phát triển. Đồng thời văn hóa Ấn Độ cũng theo đó mà được truyền vào Đông Nam Á. Từ Ấn Độ, các nhà truyền đạo cũng lợi dụng các thuyền buôn để vào Đông Nam Á đó là những nhà tu hành Balamon, Mật giáo, và Phật giáo. Sự giao lưu văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á càng bền chặt hơn khi một số người Ấn Độ định cư lại, xây dựng gia đình và lập nghiệp ở Đông Nam Á; và bản thân những người Đông Nam Á bản địa cũng đến Ấn Độ với mục đích thương mại và nhờ đó tiếp thu văn hóa Ấn Độ. Sự tiếp xúc văn hóa Đại Việt - Ấn Độ Trước khi văn hóa Ấn Độ tràn vào, văn hóa Đại Việt đã định hình và phát triển. Người Việt ở đây tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Những thế kỷ đầu công nguyên, châu thổ Bắc Bộ là địa bàn trung chuyển văn hóa Ấn Độ, nhất là tôn giáo. Các nhà sư từ Ấn Độ đi qua Luy Lâu (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh) để rồi tìm đường lên phương Bắc và các nhà sư Trung Quốc sang Ấn Độ tìm kinh cũng qua Luy Lâu, coi đây là trạm dừng chân. Vị trí địa lý của Luy Lâu gần Trung Quốc, người Giao Châu gần gũi với văn minh Trung Hoa (địa lý – văn tự) và đây trở thành một trạm trung chuyển văn hoá. Từ đó người Việt tiếp thu thành tựu văn hoá vật chất, ngôn ngữ và tinh thần của văn hoá Ấn Độ. Luy Lâu trở thành một trung tâm Phật giáo nổi tiếng ở Bắc Ninh. Tại đây, các nhà sư Ấn Độ đã dạy kinh Phật hoặc dừng lại đây để tiếp tục đi sang các trung tâm Phật giáo ở Trung Quốc. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo đã hình thành một đội ngũ nhà sư bản địa thông hiểu kinh Phật, giỏi chữ Phạn. Có những nhà sư sang Ấn Độ để tu luyện. Mặc dù có quá ít tài liệu về mối quan hệ Ấn – Việt vào những thế kỷ cuối trước Công nguyên, nhưng với những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy vùng Bắc Bộ