Ngày nay, khi điều kiện sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu sử dụng thực phẩm tốt cho sức khỏe ngày càng tăng và đang từng bước chuyển dần từ loại có chứa các chất dinh dưỡng cho cơ thể cũng như tác dụng ngăn ngừa hay chữa bệnh.
Một trong những xu hướng thực phẩm hướng tới trong tương lai là những thực phẩm chức năng mang lại nhiều lợi ích cho con người, mang bản chất tự nhiên là chính, kích thích sự phát triển của chính cơ thể người sử dụng, đặc biệt là hệ vi sinh vật có ích cho cơ thể chính người sử dụng.
33 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2361 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của prebiotic đến sức khỏe, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC & THỰC PHẨM
&
TIỂU LUẬN
MÔN
NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI TRONG CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
ẢNH HƯỞNG CỦA PREBIOTIC ĐẾN SỨC KHỎE
GVHD: ThS. Dương Văn Trường
Lớp: ĐHTP6LT
SVTH: Phạm Thị Kim Oanh 10349741
Nguyễn Thị Bích Thuỷ 10324581
Trần Thị Kim Xuân 10343471
Niên Khoá: 2010-2012
TPHCM, Tháng 2 năm 2012
MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi điều kiện sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu sử dụng thực phẩm tốt cho sức khỏe ngày càng tăng và đang từng bước chuyển dần từ loại có chứa các chất dinh dưỡng cho cơ thể cũng như tác dụng ngăn ngừa hay chữa bệnh.
Một trong những xu hướng thực phẩm hướng tới trong tương lai là những thực phẩm chức năng mang lại nhiều lợi ích cho con người, mang bản chất tự nhiên là chính, kích thích sự phát triển của chính cơ thể người sử dụng, đặc biệt là hệ vi sinh vật có ích cho cơ thể chính người sử dụng.
Hệ tiêu hóa của chúng ta chứa thường trực trên 400 loại vi khuẩn khác nhau với tổng số trên 100 000 tỉ vi khuẩn. Đây là những vi khuẩn có ích cho cơ thể. Chúng tạo thành hệ vi sinh đường ruột. Đây là những vi khuẩn đồng minh của cơ thể chúng ta, chúng đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của mỗi người.
Từ những nghiên cứu về lợi ích của những vi khuẩn lên men trong thực phẩm như sữa chua đối với sức khỏe con người, dòng sản phẩm bổ sung vi khuẩn sống hay cơ chất cho khuẩn sống prebiotic ra đời, chúng là những chất bột đường glucide không tiêu hóa được và vẫn còn nguyên vẹn khi vào đến ruột già (colon). Prebiotic được đánh giá là có nhiều tác dụng bổ dưỡng cho người tiêu dùng ở mọi lứa tuổi và một số người bị bệnh đường tiêu hóa…. chúng kích thích sự hoạt động của probiotics đặc biệt là nhóm Bifidobacterium.
Prebiotic giúp vào việc cải thiện hệ miễn dịch, giúp hấp thụ chất calcium, và có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer nữa.. Đây là một trong những xu hướng phát triển mới của ngành công nghệ thực phẩm. Phát triển những những sản phẩm bỗ dưỡng cho sức khỏe người tiêu dùng.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PREBIOTIC
1.1. Khái niệm
Khái niệm về prebiotic đã được đưa ra trong khoảng 10 năm trở lại đây, trong đó prebiotic được định nghĩa là một thành phần thực phẩm không bị tiêu hóa, có tác động tích cực đến cơ thể thông qua sự kích thích có chọn lọc một số loại vi khuẩn sống trong ruột kết (ruột già), và qua đó gia tăng sức khỏe cho cơ thể.[2]
Prebiotics ban đầu được định nghĩa là các thành phần thực phẩm không tiêu hóa được mà ảnh hưởng một cách thuận lợi đến vật chủ bằng cách kích thích chọn lọc sự tăng trưởng các hoạt động của một hoặc một số hạn chế của vi khuẩn trong ruột kết, qua đó nâng cao sức khỏe của vật chủ.[1]
Tuy nhiên, một định nghĩa gần đây là "Prebiotic là một thành phần lên men chọn lọc, cho phép những thay đổi cụ thể, cả về thành phần hoặc hoạt động của hệ vi sinh vật trong hệ tiêu hóa mà lợi ích nó mang lại cho vật chủ là tình trạng sức khỏe lành mạnh".[1]
Theo các định nghĩa này, các prebiotic có khả năng "chống lại sự tiêu hóa và hấp thu ở dạ dày và ruột non, và được vận chuyển đến ruột già gần như nguyên vẹn về mặt cấu trúc, nơi chúng được lên men dưới tác dụng của hệ vi khuẩn bám trên thành ruột già". Khi đã vào đến ruột già, các prebiotic phát huy tác dụng kích thích có chọn lọc sự gia tăng về số lượng cũng như hoạt động của một số loại vi khuẩn nhất định, là những vi khuẩn có lợi, cụ thể như các vi khuẩn loại bifidobacteria hay lactobacilli, đồng thời làm giảm số lượng của các chủng vi khuẩn kị khí tùy ý như Escherichia coli và Clostridia.[2]
Khái niệm chủ yếu liên quan với cả những định nghĩa này là prebiotic có tác dụng chọn lọc trên hệ vi sinh vật mà kết quả trong việc cải thiện sức khỏe của vật chủ. Các prebiotics thường gặp trong sử dụng bao gồm inulins, fructo-oligosaccharides (FOS), galacto oligosaccharides (GOS), soybean-oligosaccharides, xylo-oligosaccharides, pyrodextrins, isomalto-oligosaccharides và lactulose. Phần lớn các nghiên cứu thực hiện cho đến nay đã tập trung vào inulin, FOS và GOS.[1]
Kiểm tra hơi thở của những người sau khi uống prebiotics cho thấy sự gia tăng bài tiết hydro, và không có tăng đường huyết hoặc insulin.[1]
Prebiotics tìm thấy ở:
Đậu nành.
Yến mạch nguyên cám.
Lúa mì nguyên cám.
Lúa mạch nguyên cám.
Thực phẩm bổ sung (prebiotic).
Prebiotics có nhiều trong sữa mẹ và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống miễn dịch của trẻ.
1.2. Thành phần, đặc điểm, tác dụng của các chất tạo nên Prebiotic.
Có hai loại prebiotic. Prebiotic loại tự nhiên được tìm thấy chủ yếu trong các loài thực vật như: chuối, măng tây, đậu, đậu nành, rau diếp xoăn, yến mạch, lúa mì nguyên cám, lúa mạch nguyên cám, tỏi, cà chua,… chẳng hạn như fructooligosaccharide (FOS), inulin,.. và trong sữa như Galactooligosaccharide (GOS). Ngoài ra, Prebiotic còn được tổng hợp từ sự phân hủy các polysaacharides bằng enzyme, ví dụ như từ tinh bột biến tính. [9] [2]
Các Prebiotic được dùng phổ biến nhiều nhất hiện nay là inulin, fructooligosaccharide (FOS), Galactooligosaccharide (GOS), xylooligosaccharide (XOS), lactulose, isomaltooligosaccharide (IMO) transgalactooligosaccharides(TOS)...Trong đó inulin là một trong số những prebiotic được nghiên cứu và tìm hiểu rõ nhất. Hiện nay, có thêm một số prebiotic mới như pectincoligosaccharide, lactosucrose, đường alcohol, xylosaccharide, glucooligosaccharide, levans và oligosaccharide đậu nành. [9]
1.2.1. Galactooligosaccharide (GOS)
Galactooligosaccharide là thành phần tương tự chất xơ tan có nguồn gốc từ lactose trong sữa mẹ, sữa bò và yogurt. GOS bao gồm các chuỗi đường đơn galactose nối với nhau và ở cuối chuỗi là đường glucose(một chuỗi ngắn bao gồm 3 – 10 phân tử glucose và galactose liên kết với nhau bởi liên kết glucozit.). [9] [2]
GOS là chất có thể dễ dàng tìm thấy trong tự nhiên hoặc có thể tổng hợp nhân tạo từ lactose nhờ enzyme β – galactozidaza. GOS cũng là một Prebiotic được ứng dụng rộng rãi vì có khả năng kích thích hoạt động của các vi sinh vật có lợi trong hệ tiêu hóa, kích thích việc sản xuất các axit béo ngắn mạch, làm tăng khả năng hấp thụ Ca và Mg… từ đó năng cao sức khỏe con người và vật nuôi. [9] [2]GOS kích thích một cách có chọn lọc sự phát triển của các loài vi khuẩn có lợi và mang lại hiệu quả tốt cho sức khỏe. Sự lên men GOS trong ruột già tạo ra các axit béo chuỗi ngắn ( SCFA) như là acetate, propionate, lac tate và butyrate có lợi cho sức khỏe vật chủ. [9]
1.2.2. Fructooligosaccharide (FOS)
FOS là một chuỗi oligosaccarit ngắn bao gồm các phân tử D – fructose và D – glucose dài từ 3 đến 5 monosaccarit. Oligofructose (một FOS hỗn hợp) là sản phẩm thủy phân bởi enzyme từ inulin bao gồm hỗn hợp các chuỗi có đầu fructose và glucose, độ dài chuỗi gồm từ 2 đến 7 đơn vị được tìm thấy trong actiso, hành củ, tỏi tây, một số loại ngũ cốc và mật ong. Vì FOS có các phân tử đường trong cấu trúc nên chúng có vị ngọt dịu.
FOS có khả năng chống chịu, không bị tiêu hóa ở dạ dày trên, do đó có khả năng kích thích sự phát triển của chủng Lactobacillus và Bifidobacterium ở ruột già nhưng không kích thích các mầm bệnh. FOS làm tăng khả năng hấp thụ Canxi và Magie đồng thời làm giảm triglycerit. Ở động vật, FOS cho thấy khả năng chống ung thư, làm giảm đáng kể sự hình thành các khối u đường ruột. [9] [2]
v Inulin
Inulin là một chuỗi oligosaccarit dài gồm các gốc fructose được nối với nhau bởi liên kết β – 2,1 – glucozit và glucose ở tận cùng, thuộc vào lớp cacbonhydrat gọi là fructan. Các loại thực vật có khả năng tạo inulin được tìm thấy trong một vài họ một lá mầm và hai lá mầm như họ thủy tiên…, rau diếp xoăn, hành, tỏi, măng tây, chuối…[9].
Inulin không bị phân giải trong ruột non mà chỉ bị phân giải bởi vi sinh vật trong ruột già và kích thích sự phát triển của Bifidobacterium trong ruột già. Inulin có khả năng giữ nước, thay thế chất béo và đóng góp năng lượng tối thiểu, đồng thời có hương vị ngọt nên được bổ sung vào rất nhiều loại thực phẩm khác nhau, sử dụng làm chất thay thế đường, chất thay thế chất béo, tạo độ cứng và ổn định bọt…hoặc dùng trong các loại thực phẩm hỗn hợp như các sản phẩm sữa lên men, các món khai vị, các thực phẩm nướng, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ…[9]
Hình 1.1. Cấu trúc GOS và FOS
1.2.3. Lactosucrose
Lactosucrose -b là sản phẩm kết hợp lactose và surcose bởi liên kết fructofuronosidase. Lactosucrose là prebiotic tổng hợp là tự phân giải của enzyme. Lactosucrose kháng lại sự phân giải trong dạ dày và trong ruột non, tác động lên hê vi sinh vật đường ruột làm gia tăng đáng kể sự phát triển của các loài Bifidobacterium. Lactosucrose được sử dụng rộng rãi ở Nhật và Mỹ trong thực chức năng, kể cả yogurt. [9]
Hình 1.2. Cấu trúc phân tử Lactosucrose
1.2.4. Lactulose
Lactulose là một loại đường tổng hợp từ latose(galactose-glucose)qua sự đồng hóa glucose thành fructose. Chính cấu trúc này giúp cho lactulose không thể bị phân giải bởi enzyme của động vật hay người mà vẫn không bị thay đổi khi đến ruột già. Lactulose đến ruột già sẽ được các vi sinh vật ở đây (như Bifidobacteria và Lactobacilli) lên men tạo ra một lượng các axít béo chuỗi ngắn (SCFA) có lợi cho việc tiêu hóa. Đồng thời chúng làm giảm pH và tăng áp suất thẩm thấu làm thúc đẩy nhu động của ruột. Ngoài ra, sự giảm pH còn giúp ức chết sự hình thành các chất gây hại như ammonia bởi vi khuẩn . Nó còn kích thích sự phát triển của các chủng vi sinh vật có lởi, giúp tăng cường hàng rào miễn dịch của cơ thể, giúp phòng bệnh. [9]
Hình 1.3. Cấu trúc phân tử Lactulose
1.2.5. Isomaltooligosaccharide (IMO)
Isomaltooligosaccharide là prebiotic tổng hợp, được tạo ra từ tinh bột bởi sự phân giải của enzyme. IMO bao gồm glucose và những phân tử đường saccharide khác. IMO kích thích sự phát triển của các loài Bifidobacterium và Lactobacillus trong ruột già. [9]
1.2.6. Glucooligosaccharide
Glucooligosaccharide là prebiotic tổng hợp từ sự phân giải của enzyme glucosyl transferase. Glucooligosaccharide được lên men bởi các loài thuộc nhóm Bifidobacteria, ngoại trừ B. bifidum. [9]
1.2.7. Xylooligosaccharide (XOS)
XOS bao gồm các phân tử 1-4 linkage. XOS có thể là đường b- xylose nối với nhau bởi những liên kết được phân giải bởi Bifidobacteria và Lactobacilli. XOS được cho rằng có hiệu quả hơn FOS trong việc gia tăng khuẩn probiotic và làm giảm khuẩn gây hại.
XOS có tiềm năng cải thiện hàm lượng đường trong máu và sự trao đổi chất chất béo; phục hồi sự rối loạn của hệ vi sinh vật trong đường ruột do dùng kháng sinh, liệu pháp hóa trị hay xạ trị; gia tăng sự hấp thu khoáng và sự hình thành vitamin nhóm B và làm giảm sự hình thành các chất gây hại trong ruột. [9]
Hình 1.4. Cấu trúc phân tử của Oligosaccarit
1.2.8. Transgalactooligosaccharide (TOS)
TOS bao gồm các phân tử đường glucose và galactose. Chúng được tạo ra từ lactose bởi sự phân giải của enzyme thu nhận từ nấm mốc Aspergillus oryzae.
TOS kháng lại sự phân giải trong đoạn dạ dày ruột trên, vì vậy chúng có khả năng kích thích sự phát triển của các loài Bifidobacteria trong ruột già. TOS được thương mại ở Nhật và Châu Âu, Mỹ như là thực phẩm chức năng, TOS đã được chứng mình là có hiệu quả hấp thụ Ca và ngăn ngừa bệnh loãng xương. [9]
1.2.9. Oligosaccarit đậu tương
Là các loại oligosaccarit có trong đậu tương và các loại đậu khác, chủ yếu là trisaccarit raffinose và tetrasaccarit stachyose. Raffinose bao gồm các phân tử D – galactose, D – glucose, D – fructose, stachyose chứa hai phân tử D – galactose, một phân tử D – glucose, một pt D – fructose. Chúng có tác dụng kích thích sự phát triển của loài Bifidobacterium trong ruột già nên đang được nghiên cứu làm thực phẩm chức năng. [9]
1.2.10. Xylo – oligosaccarit
Tạo thành bởi các oligosaccarit chứa xylose liên kết với nhau bởi liên kết β. Xylo – oligosaccarit có mức độ polymer hóa từ 2 -4, là sản phẩm của quá trình thủy phân xylan bởi enzyme. Chúng không bị tiêu hóa ở ruột non và có tác dụng kích thích sự phát triển của loài Bifidobacterium trong ruột già, có khả năng làm tăng nồng độ đường trong máu, tăng cường trao đổi chất béo, tăng khả năng hấp thụ khoáng và vitamin B đồng thời làm giảm khả năng nhiễm trùng ruột.[9]
Có một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tất cả những tác động của oligosaccharide trong ruột, cụ thể như: [2]
+ Bản chất của chính oligosaccharide
+ Liều lượng oligosaccharide đang hiện diện
+ Thời gian oligosaccharide được tiêu thụ (qua quá trình lên men)
+ Khu vực chính diễn ra hoạt động lên men oligosaccharide (gần hoặc xa khu vực ruột già)
+ Thành phần cấu tạo của hệ vi khuẩn trong ruột lúc đầu.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PREBIOTIC ĐỐI VỚI SỨC KHỎE
2.1. Tính đặc trưng và các hiệu ứng sinh lý của Prebiotics
2.1.1. Mucosal Structure – Cơ cấu, tổ chức niên mạc.
Prebiotics có thể có tác dụng dinh dưỡng trực tiếp vào cấu trúc của niêm mạc đại tràng. Các nghiên cứu trên chuột được cho ăn rau diếp xoăn có chứa inulin và oligofructose, hoặc pectin trong 4 tuần thì thấy tăng số lượng của các tế bào biểu mô, và tăng cường các chức năng bài tiết của chúng. Các nghiên cứu trên niêm mạc chuột và đại tràng phát hiện nồng độ 10 g / l của một hỗn hợp FOS / Inulin (Raftilose 1 Synergy 1) tăng gấp 2,2 lần diện tích bề mặt vĩ mô, và mô bức tường trọng lượng tăng 2,4 lần.[1]
Các cơ chế chính xác của những thay đổi hình thái này xảy ra đến giờ vẫn chưa được biết đến, một sản phẩm chính của vi khuẩn trong quá trình lên men chuyển hóa carbohydrate trong ruột là butyrate, được biết là có tác động dinh dưỡng kích thích đến sự tăng sinh niêm mạc, trong khi lactic acid kích thích quá trình nguyên phân trong biểu mô chuột. Vì vậy có thể là SCFA chịu trách nhiệm cho những thay đổi thích ứng. Khái niệm này được hỗ trợ bởi thí nghiệm thực tế về những thay đổi dinh dưỡng không xảy ra trong prebiotic mà động vật sử dụng không có mầm bệnh và quá trình trao đổi chất của vi khuẩn chịu trách nhiệm để gây thay đổi cấu trúc lớn trong thành ruột.[1]
2.1.2. Intestinal Mucus - Chất nhầy trong đường ruột
Chất nhầy trong đường ruột là một glycoprotein giàu cysteine mucin có trọng lượng phân tử cao (m.w> 106) và các peptide, sản xuất bởi các tế bào goblet. Nó là một trong những dòng đầu tiên bảo vệ niêm mạc ruột và tạo thành một lớp dày nhớt trên bề mặt niêm mạc. Lớp chất nhầy là một rào cản năng động và mật độ và số lượng tế bào cốc khác nhau trên khắp đường tiêu hóa, dày ở phần xa nhất của đại tràng. Nó cũng được đánh giá cao hơn trong quá trình sunfat hóa ruột xa, nơi vi khuẩn ở con số cao nhất.[1]
Chất nhầy là một nguồn nitơ và carbon cho vi khuẩn, sản xuất liên tục bởi vật chủ làm cho điều kiện trong ruột thích hợp với vi sinh vật, mặc dù thực tế là rất ít vi khuẩn có thể sản xuất đầy đủ các enzyme cần thiết để làm suy giảm các phân tử trong đại tràng. Những sinh vật này bao gồm một số loài thuộc các chi Bifidobacterium, Bacteroides và Ruminococcus.[1]
2.1.3. Phytic Acid and Mineral Bioavailability – acid phytic và những lợi ích đạt được
Phytic axit được tìm thấy chủ yếu trong các loại đậu, trong đậu có chứa các chất chống ung thư, các chất này được đưa đến đại tràng mà không bị phá hủy. Phytate là một phân tử với sáu nhóm phosphate, cho phép nó có thể giữ các cation chất khoáng như sắt, kẽm và canxi, làm cho chúng không có sẵn cho sự hấp thụ của cơ thể. Thiếu sắt có liên quan với bệnh thiếu máu, thiếu hụt canxi có liên quan với bệnh loãng xương, và kẽm là cần thiết cho sự phát triển xương và sự trưởng thành. Nghiên cứu cho thấy rằng có một mối quan hệ nghịch đảo mạnh mẽ giữa số lượng acid phytic trong chế độ ăn uống và hấp thụ sắt. Chỉ một lượng rất nhỏ của axit phytic (0,7%) trong chế độ ăn uống là cần thiết để giảm một nửa sự hấp thụ sắt. Tuy nhiên, prebiotics được biết là có tác dụng kích thích sự hấp thụ sắt trong ruột già, bằng cách tăng phần hòa tan sắt trong các tế bào, và độ tăng cường hấp thụ đạt 23% (P <0.001).[1]
Tỷ lệ của axit phytic kẽm trong chế độ ăn uống có liên quan với tiến độức chế sự hấp thụ ion kim loại, và trong các nghiên cứu, hàm lượng acid phytic là rất lớn sẽ đi kèm với sự hấp thu kẽm giảm ở những người trẻ khỏe mạnh, đối tượng người cao tuổi. Bổ sung FOS trong chế độ ăn uống giúp phục hồi sự hấp thụ kẽm bằng cách tăng cường khả dụng sinh học kẽm (P <0,05).[1]
Các nghiên cứu ở đoạn cuối của ruột ở chuột đã chỉ ra rằng kết quả quá trình trao đổi chất của vi khuẩn trong quá trình thủy phân phytate, và tiêu dùng có liên quan với sự nâng cao hoạt động của phân tử (60%), và giảm đáng kể bài tiết trong phân.
Điều này cũng liên quan đến sự hấp thụ cation lớn hơn, kết hợp với sự tăng hoạt động trao đổi chất của vi khuẩn. Axit hữu cơ được sản xuất trong quá trình lên men, đặc biệt là SCFA, hình thành các phối tử hòa tan với các cation để ngăn chặn sự hình thành của phytates khoáng không hòa tan, cũng như gây cảm ứng enzym phytase. Ảnh hưởng trực tiếp của pH lên SCFA cũng đã được kết hợp với tính hòa tan giảm phức phytatemineral.[1]
2.2. Modulation of the Gut Microbiota – sự điều biến của các vi sinh vật Gut.
Bằng chứng từ các thử nghiệm dinh dưỡng ở người, các mô hình động vật và các hệ thống mô hình hóa trong ống nghiệm đã cho thấy rằng prebiotics ảnh hưởng đến các thành phần của hệ vi sinh vật đường ruột, dẫn đến sự gia tăng về sức khỏe, thúc đẩy các sinh vật như bifidobacteria và lactobacilli. Những vi khuẩn này thường được coi là an toàn bởi vì chúng chủ yếu lên men tinh bột, không gây bệnh và là toxigenic, trong khi chúng có một vai trò điều hòa miễn dịch thường xuyên thể hiện ở vật chủ. Một số loài cũng có thể để lên men prebiotics SCFA như acetate và butyrate, là nguồn năng lượng quan trọng cho vật chủ. Trong khi bifidobacteria không sản xuất butyrate, chúng đã được hiển thị để kích thích sản xuất butyrate loài vi khuẩn chẳng hạn như eubacteria trong ruột (Belenguer et al, 2006). SCFA cũng đóng một vai trò trong việc điều tiết tăng trưởng và sự khác biệt tế bào, quá trình vận chuyển tế bào biểu mô ruột, gan và kiểm soát chuyển hóa lipid và carbohydrate. Một trong những lợi thế mà prebiotics có trong chế phẩm sinh học là các vi khuẩn đã hiện diện trong vật chủ, tuy nhiên, cần lưu ý rằng các sinh vật cần thiết để thúc đẩy sức khỏe không phải là đã hiện diện trong ruột, do bệnh, ví dụ, các prebiotic có thể biểu hiện không có tác dụng hữu ích.[1]
Ngoài ra, nó có thể hữu ích để xem xét những ảnh hưởng của prebiotics không chỉ trên các quần thể phân, nhưng microbiotas trên niêm mạc ruột. Gần đây, một sự kết hợp hàng ngày là 7,5 g inulin và 7,5 g FOS được sử dụng để tăng mức độ bifidobacteria và eubacteria niêm mạc. Điều này có thể hữu ích trong việc điều trị các bệnh tiêu hóa như viêm loét đại tràng, mức giảm của bifidobacteria và dysbiosis chung trong các quần thể vi khuẩn niêm mạc đã được chứng minh là tồn tại.[1]
2. 3. Immune System – Hệ miễn dịch
Ngày càng có nhiều quan tâm trong việc điều chế các các prebiotics hệ miễn dịch, có thể đặc biệt hữu ích trong điều kiện viêm nhiễm, hoặc ở trẻ em và người già. Bằng chứng đến nay cho thấy prebiotics có thể có tác động đáng kể đến hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, kết quả không rõ nếu đây là những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự kích thích miễn dịch, hoặc sản xuất SCFA, được biết là có tính chất điều hòa miễn dịch, và có thể liên kết với SCFA thụ thể protein G kết trên các tế bào miễn dịch trong ruột liên quan mô bạch huyết.[1]
Bổ sung FOS và lactulose trong chế độ ăn uống sẽ tăng sản xuất globulin miễn dịch niêm mạc, hạch bạch huyết mạc treo. Điều tra về tác động của prebiotics trên hệ thống miễn dịch đòi hỏi phải đánh giá cẩn thận về sự lựa chọn của các dấu hiệu, sẽ thay đổi, và phụ thuộc vào điều kiện nghiên cứu.[1]
Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các con chuột được nuôi với FOS và Inulin có một cải thiện phản ứng với thuốc chủng salmonella. Sau 1 tuần tiêm chủng, nuôi cấy tế bào lách được hiển thị để gia tăng sản xuất các cytokine như INF-g, IL-12 và TNF-a cũng như salmonella cụ thể IgG, IgA. Nhìn chung, ý nghĩa là kết hợp FOS / Inulin vật chủ miễn dịch kích thích niêm mạc để sản xuất một phản ứng lớn hơn với vắc xin salmonella.[1