Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đó, Đảng và Nhà nước đã xác định chiến lược công nghiệp hóa nước ta hướng về xuất khẩu song song với thay thế nhập khẩu. Mục đích của chiến lược này nhằm giúp cho nền kinh tế tăng trưởng cao, thu được lợi nhuận lớn không chỉ từ trong nước mà còn mở rộng ra ngoài nước. Bên cạnh đó giảm được nguồn chi phí lớn cho nhập khẩu .
Nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược trên trong việc đẩy mạnh quá trình xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam trong thời gian tới, em đã lựa chọn đề tài : Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam”.
Tiểu luận của em gồm các phần sau :
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
1. Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hoá
2.Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam
3. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
Phần III: Kết luận
Với kiến thức và hiểu biết của bản thân còn hết sức hạn chế nên trong tiểu luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
14 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đó, Đảng và Nhà nước đã xác định chiến lược công nghiệp hóa nước ta hướng về xuất khẩu song song với thay thế nhập khẩu. Mục đích của chiến lược này nhằm giúp cho nền kinh tế tăng trưởng cao, thu được lợi nhuận lớn không chỉ từ trong nước mà còn mở rộng ra ngoài nước. Bên cạnh đó giảm được nguồn chi phí lớn cho nhập khẩu .
Nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược trên trong việc đẩy mạnh quá trình xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam trong thời gian tới, em đã lựa chọn đề tài : Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam”.
Tiểu luận của em gồm các phần sau :
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
1. Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hoá
2.Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam
3. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
Phần III: Kết luận
Với kiến thức và hiểu biết của bản thân còn hết sức hạn chế nên trong tiểu luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hoá
1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân .
1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của từng quốc gia. Thực tiễn đã chứng minh hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động mũi nhọn quyết định quá trình phát triển của một nước. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua một số khía cạnh sau :
Trước hết, xuất khẩu góp phần tạo ra cơ cấu kinh tế mới năng động, định hướng và thúc đẩy tăng trưởng sản xuất. Sản xuất các mặt hàng xuất khẩu tạo điều kiện phát triển các ngành có liên quan. Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia, tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển.
Tiếp đến, xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập, từ đó tăng mức sống cho người lao động. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu làm đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng trên thị trường, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng ngày càng cao của người dân.
Xuất khẩu còn là phương cách để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trên cơ sở các bên cùng có lợi. Thông qua xuất khẩu, các quốc gia có thể bán ra bên ngoài những sản phẩm mà mình có lợi thế sản xuất, từ đó thu được lợi nhận kinh tế cao cho nước mình.
Bên cạnh đó, xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế –kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Xuất khẩu chính là cơ sở quan trọng nhất tạo ra các nguồn vốn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kĩ thuật công nghệ tiên tiến ứng dụng vào sản xuất.
Cuối cùng, thông qua hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước sẽ có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về chất lượng, giá cả, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài. Tuy nhiên, cũng tạo ra thách thức đối với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
2. THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở NƯỚC TA
Qua thực tế xuất khẩu hàng hóa ở nước ta những năm qua, đặc biệt là năm 1996, chúng ta thấy xuất khẩu Việt Nam đã đạt được sự phát triển nhanh với những thành công đáng khích lệ. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng không ngừng. Cùng với sự gia tăng kim ngạch, thị trường xuất khẩu cũng được mở rộng, từ năm 1990 trở về trước Việt Nam chỉ có quan hệ thương mại với 40 nước, đến năm 1995 co số này đã tăng lên đến 105 nước và tổ chức quốc tế. Trong đó, nước ta đã kí hiệp định thương mại với 60 nước. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa thực sự đang chuyển sang một thời kì mới với một số điểm nổi bật sau:
Một là: Cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta trong mấy năm gần đây đang có những thay đổi đáng khích lệ theo hướng tiến bộ hơn, phản ánh diễn biến thuận chiều của nền sản xuất hàng hóa. Xuất khẩu từ chỗ chỉ trông vào nguồn nông, lâm, thủy sản và tài nguyên thiên nhiên đã chuyển dịch tăng dần hàng chế biến công nghiệp. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản tuy tỷ trọng cơ cấu xuất khẩu có giảm đi nhưng trị giá tuyệt đối vẫn tăng. Trong đó, việc chế biến để nâng cao trị giá và đa dạng hóa mặt hàng có ý nghĩa rất lớn và rất được quan tâm. Tỷ trọng hàng hóa qua chế biến trong năm 1994 đạt 25%, năm 1996 lên gần 30%.
Hai là: Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã đạt được tốc độ tăng nhanh về trị giá, khối lượng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến hàng hóa, hình thành các ngành sản xuất hàng hóa, các khu công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ nên đã tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới có khối lượng và trị giá xuất khẩu trên 100 triệu USD như hàng dệt may mặc, cà phê, cao su (91-93), dày dép, hạt điều, lạc nhân (94-95). Đến cuối năm 1995, nước ta đã hình thành được 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, gạo, thủy sản, lâm sản, hàng dệt may, cà phê, cao su, dày dép, hạt điều, lạc nhân. Những mặt hàng này có tốc độ tăng trưởng, xuất khẩu nhanh, có sức cạnh tranh và chỗ đứng nhất định trên thị trường thế giới.
Ba là: Thị trường xuất khẩu được mở rộng nhanh theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Thời kì 91-95 thị trường xuất khẩu được mở rộng, trong đó khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, Châu Âu 15%, Châu Phi - Tây Nam á 3% và Châu Mỹ 2%. Năm 1996 và quí I năm 1997, thị trường truyền thống và một số thị trường trọng điểm tiếp tục được củng cố, mở rộng, có nhiều nét mới, sôi động.
Bốn là: Năm 1996 có bước tiến về cải cách thủ tục hành chính, thực hiện bãi bỏ giấy phép chuyển đổi với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu. Bộ chính trị TW Đảng khóa VII ra nghị quyết 12/ NQ-TW về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng XHCN. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu, quan điểm và 9 biện pháp chủ yếu. Bộ chính trị khoá VII ra nghị quyết 01/ NQ-TW ngày 18-11-1996 về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996-2000 đã góp phần mở rộng và phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu và nâng cao hiệu quả buôn bán đối ngoại.
Nhận thức được tầm quan trọng của xuất khẩu, trên cơ sở nắm rõ thực trạng hoạt động xuất khẩu của đất nước, cần thực hiện các biện pháp đẩy mạnh quá trình xuất khẩu hàng hoá của đất nước.
3. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM
Để thúc đẩy xuất khẩu thì cần phải thực hiện các biện pháp sau:
3.1. Xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu:
Các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh. Các sản phẩm xuất khẩu của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm gần đây luôn chiếm khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô, cà phê, gạo, giày da, than đá, cao su, hạt điều và lạc.
Các công nghệ mới phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng và công nghệ mới nói chung được khuyến khích đưa vào Việt Nam thông qua chế độ ưu đãi trong việc đánh thuế nhập khẩu. Chính phủ Việt Nam chủ trương xây dựng một hệ thống kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Việc xác định các ngành trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa quan trọng và cần phải được cân nhắc kĩ càng. Có ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam có thể coi những ngành sau đây là trọng điểm: ngành nông nghiệp, khai thác dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch, ngói, kính xây dựng), sản xuất phân bón hóa học (ưu tiên là phân đạm và phân lân), lắp ráp ô tô...
3. 2. Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao:
Chính phủ đã cấp giấy phép thành lập 6 khu chế xuất với các qui chế đầu tư ưu đãi và bước đầu một số khu vực đã hoạt động và đem lại kết quả đáng khích lệ. Các khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao cũng được thành lập ở Việt Nam và được sự quan tâm của chính phủ. Tháng 4/97 thủ tướng chính phủ đã ban hành qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam. Đây là bước đi rất quan trọng của quá trình thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu ở nước ta.
3.3. Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đói với hoạt động xuất khẩu:
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi nền sản xuất trong nước phải không ngừng đổi mới về công nghệ, khả năng quản lý, trình độ tay nghề của người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhậy nhu cầu của thị trường về chất lượng và giá cả kể cả thị trường trong nước và quốc tế. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu. Do vậy, vấn đề then chốt là Nhà nước phải chủ động trong định hướng tạo môi trường hành chính pháp lý, kinh tế sử dụng hiệu quả các biện pháp công cụ hành chính cũng như các công cụ, biện pháp kinh tế để tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả nhất. Trong đó việc tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về thương mại, nhất là quản lý xuất nhập khẩu, sử dụng các biện pháp phi thuế quan, các biện pháp không chính thức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để thực hiện quá trình trên.
Việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Vừa qua Quốc hội đã thông qua luật thương mại, tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mối đó là Bộ thương mại. Bộ thương mại thực hiện chức năng thống nhất quản lý Nhà nước và phối hợp với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ để quản lý hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
Hiện nay tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình không phân biệt thành phần kinh tế đều được tự do buôn bán với nước ngoài trên cơ sở luật định. Đối với các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu chính thức, được xuất khẩu và nhận ủy thác xuất khẩu cả những mặt hàng ngoài phạm vi ngành hàng ghi trong giấy phép kinh doanh trừ một số mặt hàng có qui định riêng như: gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào EU, Canada, Thổ Nhĩ Kì, cà phê, sản phẩm gỗ, lâm sản và lâm sản chế biến, hàng xuất khẩu theo qui chế quản lý chuyên ngành.
Từ cuối năm 1995, thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu từng chuyến hàng đã được bãi bỏ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất và được đông đảo các doanh nghiệp đánh giá cao. Đây là một trong các lý do giải thích vì sao tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 tăng đến 32,1% so với năm 1995.
3. 4. Chính sách thuế bước đầu được cải tiến;
Nhà nước Việt Nam sử dụng thuế với tư cách là một công cụ quan trọng để khuyến khích xuất khẩu. Đối với các ngành, các khu vực cần ưu tiên có những qui định về miễn giảm thuế. Sau khi có luật thuế, cơ cấu biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam đã được sửa đổi vào tháng 5/1992 và vào tháng 1/1993.
Trong kì họp Quốc hội vừa qua luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật thuế trị giá gia tăng đã được thông qua. Trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp có qui định các hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tái sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản không phải nộp thuế này. Luật thuế giá trị gia tăng sẽ qui định mức thuế suất 0% đối với tất cả các hàng hóa xuất khẩu và các hàng hóa này còn được thoái trả thuế giá trị gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là một biện pháp tài chính khuyến khích xuất khẩu tích cực ở Việt Nam.
3.5. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu:
Nhà nước và các nhà doanh nghiệp Việt Nam phải tìm kiếm và khai thác các thị trường mới. Bằng các nỗ lực ngoại giao và chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn nhằm mở đường và kích thích quan hệ buôn bán của các doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam đã kí trên 70 hiệp định thương mại và hiện nay có quan hệ buôn bán với trên 110 quốc gia. Trong đó đáng lưu ý là hiệp định khung hợp tác kinh tế với liên minh châu Âu kí ngày 17/07/95 tham gia vào AFTA (khu mậu dịch tự do ASEAN), bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, đang đàm phán với Mỹ về hiệp định thương mại và chế độ tối huệ quốc. Chính phủ Việt Nam cũng đã nộp đơn gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và tổ chức thương mại thế giới WTO. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hiện nay của Việt Nam là Châu á 80%, châu Âu 15%, châu Phi 3%, châu Mỹ 2%.
Để khuyến khích xuất khẩu ngành thương mại đã tổ chức khoảng 100 hội chợ, triển lãm và hội thảo thương mại tại Việt Nam. Việt Nam đã cử 55 đoàn cán bộ thương mại ra nước ngoài và đón 50 đoàn nước ngoài vào Việt Nam. Gần 200 doanh nghiệp Việt Nam đã đặt văn phòng đại diện và chi nhánh ở nước ngoài.
3.6. Chính sách tỷ gía hối đoái linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy xuất khẩu:
Từ năm 1987, Việt Nam bắt đầu cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ (đồng tiền đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thanh toán của Việt Nam với nước ngoài). Chính sách tỷ giá hối đoái góp phần giữ vững được giá trị đồng Việt Nam cả về danh nghĩa và giá trị thực, ổn định mặt bằng giá cả trong nước và kiềm chế lạm phát, khuyến khích được xuất khẩu tăng lên hàng năm.
3.7. Thành lập các tổng công ty lớn và các tập đoàn kinh doanh lớn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế:
Trong những năm gần đây hàng loạt các tổng công ty, các tập đoàn đã được thành lập. Trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý và khả năng vươn tầm hoạt động ra thị trường thế giới của từng doanh nghiệp còn hạn chế thì việc này đã giúp các doanh nghiệp trong cùng ngành liền kết để phát huy sức mạnh tổng hợp. Với tầm vóc (thế và lực) đủ lớn thì khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài đã và sẽ tăng lên đáng kể.
3.8. Thu hút đầu tư nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng:
Việc thu hút đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho việc thúc đẩy xuất khẩu biểu hiện ở các khía cạnh:
+ Khu vực có vốn nước ngoài đầu tư có hiệu quả vào các lĩnh vực thay thế nhập khẩu.
+ Khu vực có vốn nước ngoài đầu tư vào các ngành có hàm lượng vốn và trình độ công nghệ cao.
+ Khu vực có vốn nước ngoài đầu tư vào các ngành thương mại ra xuất khẩu.
Để đáp ứng yêu cầu đó ngày 12/11/1996 Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thay thế cho luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và luật sửa đổi bổ xung luật đầu tư . Với việc tạo ra một sân chơi thông thoáng, hấp dẫn, bình đẳng, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên không ngừng cả về số vốn và số dự án. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 9 năm qua là khoảng 50%. Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu của Việt Nam. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 phần đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 11% tăng gấp đôi so với năm 1995. Nếu tính cả phần xuất khẩu dầu thô thì tỷ lệ này lên đến hơn 25%. Trong thời gian tới, chắc chắn phần xuất khẩu của khu vực này sẽ còn tăng lên nữa.
Nhìn tổng quát từ khi thực hiện chính sách “mở cửa”, Nhà nước ta đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp khác nhau để xây dựng một cơ cấu kinh tế năng động, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, tăng cường năng lực xuất khẩu của nền kinh tế quốc dân, đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm khoảng trên 20%. Đây là tốc độ cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế trong nước và cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của nền ngoại thương thế giới.
3.9. Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam:
Mặc dù đã có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến, nhưng nhìn tổng thể thì hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng thô và nguyên liệu, được thu gom ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau nên chất lượng không đồng đều, chưa chú trọng qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt trị giá hàng tỷ USD, hàng chế biến sâu và tinh chiếm tỷ trọng thấp.
Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam phải thực hiện:
Đẩy mạnh xuất khẩu phải có chiến lược xây dựng các ngành hàng xuất khẩu chủ lực để tạo ra nguồn hàng lớn và ổn định. Chiến lược này dựa trên cơ sở xây dựng cơ cấu ngành kinh tế, các mặt hàng phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng của thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại để sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, mở rộng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển các khu vực công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do, vùng sản xuất nông-lâm-thủy sản lớn và tập trung. Nâng cấp hoặc xây dựng mới các xí nghiệp vừa và nhỏ bằng những công nghệ hiện đại và phù hợp với điều kiện Việt Nam, đổi mới kiều dáng công nghiệp, mấu mã hàng hóa, áp dung các phương pháp quản lý tiên tiến, nâng cao tay nghề của người lao động. Chú trọng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, dần dần hình thành và phát triển công nghiệp nông thôn và thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp nhằm chuyển bớt lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Nâng cao vai trò quản lý điều hành của Nhà nước, đổi mới cơ chế xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện thị trường mở, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tự do hóa ngoại thương, khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, tiến tới loại bỏ dần những hạn chế định lượng trong nhập khẩu và thay thế bằng những mức thuế quan giảm dần để chỉ đến năm 2000 thuế nhập khẩu chỉ còn 0-5% theo qui định của chương trình thuế quan mang lại hiệu quả chung của các nước ASEAN. Nâng cao trình độ quản lý của các viên chức nhà nước để đáp ứng tốt nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ tổ chức quản lý và tiếp thị của các doanh nghiệp để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Quan tâm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường xuyên lắng nghe ý kiến của họ để đề ra các chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng thời kì kinh tế của đất nước.
Phát triển công nghiệp theo hướng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa các ngành kinh tế xã hội, từng bước nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp . Phấn đấu đạt tốc độ phát triển công nghiệp hàng năm từ 15% trở nên.
Chiến lược con người là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Quan tâm phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế hài hòa với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế bền vững, giữ gìn và phát huy bản sắc Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực tương xứng với nền kinh tế. Đó là những yếu tố quyết định sự thành công của chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ và qui mô xuất khẩu, làm cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có tính cạnh tranh cao trên thương trường quốc tế
KẾT LUẬN
Hướng mạnh về xuất khẩu là nhiệm vụ chiến lược của toàn bộ nền kinh tế, của toàn x