Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất với nhân loại trong thế kỉ 21. Nó đã và đang tác động nghiêm trọng tới sản xuất, đời sống và môi trường trong phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, nước biển dâng gây ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế- xã hội trong tương lai. Trái đất nóng lên, nước biển dâng cao, biến đổi khí hậu đến nay không còn là vấn đề riêng của một nước nào mà đó là vấn đề chung, là trách nhiệm của toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đang rất nỗ lực xây dựng và thực hiện các hành động chiến lược nhằm thích ứng với sự nóng lên toàn cầu, ngăn ngừa và hạn chế tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan do biến đổi khí hậu
31 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các vấn đề môi trường trong xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
TRONG XÂY DỰNG
Hà Nội – 2010
Mục lục
Tr
1. Biến đổi khí hậu toàn cầu – Nguyễn Văn Dũng 03
2. Lắng đọng axit – Chu Anh Đại 09
3. Hiệu ứng nhà kính – Trần Minh Đức 18
4. Mối quan hệ
giữa các thành phần của môi trường – Nguyễn Trường Giang 050 20
5. Suy giảm tầng ozon – Nguyễn Trường Giang 053 26
6. Mối quan hệ dân số và tài nguyên môi trường – Phạm Thế Giang 29
BIẾN ĐỒI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất với nhân loại trong thế kỉ 21. Nó đã và đang tác động nghiêm trọng tới sản xuất, đời sống và môi trường trong phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, nước biển dâng gây ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế- xã hội trong tương lai. Trái đất nóng lên, nước biển dâng cao, biến đổi khí hậu đến nay không còn là vấn đề riêng của một nước nào mà đó là vấn đề chung, là trách nhiệm của toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đang rất nỗ lực xây dựng và thực hiện các hành động chiến lược nhằm thích ứng với sự nóng lên toàn cầu, ngăn ngừa và hạn chế tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan do biến đổi khí hậu.
I- Biến đổi khí hậu và những biểu hiện của biến đổi khí hậu.
1.1. Biến đổi khí hậu.
Hệ thống khí hậu Trái đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển và sinh quyển. Các quá trình khí hậu diễn ra trong sự tương tác liên tục của những thành phần này. Quy mô thời gian của sự hồi tiếp ở mỗi thành phần khác nhau rất nhiều. Nhiều quá trình hồi tiếp của các nhân tố vật lý, hóa học và sinh hóa có vài trò tăng tường sự biến đổi khí hậu hoặc hạn chế sự biến đổi khí hậu. Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu đã định nghĩa: “Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.
1.2. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.
Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
II. Nguyên nhân và hậu quả của biến đổi khí hậu:
2.1. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO, CH, NO, HFCs, PFCs và SF6.
CO phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra tử các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
CH sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
NO phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản uất HCFC-22.
PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
2.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Bằng chứng về sự nóng lên của hệ thống khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng nhiệt độ trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và tăng mực nước biển trung bình trở nên phổ biến. Sự gia tăng nhiệt độ đang trở nên phổ biến trên toàn cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao ở phía bắc. Khu vực đất liền nóng lên nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay đổi về nồng độ khí nhà kính trong khí quyển, các sol khí, độ che phủ đất và bức xạ mặt trời đã làm thay đổi cân bằng năng lượng của hệ thống khí hậu. Lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu do con người đã tăng khoảng 70% so với thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, trong khoảng thời gian từ 1970 đến 2004.
Khí CO là loại khí nhà kính quan trọng nhất do các hoạt động của con người tạo ra. Từ năm 1970 đến năm 2004, phát thải hàng năm của loại khí này tăng khoảng 80%. Xu thế giảm dài hạn khí thải CO trên một đơn vị năng lượng đã bị đảo ngược sau năm 2000.
Năm 2005, nồng độ CO trong khí quyển là 379 ppm và CH là 1.774 ppm, vượt xa mức tự nhiên trong hơn 650.000 năm qua. Nồng độ CO2 trên toàn cầu tăng chủ yếu do sử dụng nhiên liệu hoá thạch và thay đổi mục đích sử dụng đất (hoạt động này chỉ góp một phần nhỏ). Tăng nồng độ CH chủ yếu do nông nghiệp và đốt nhiên liệu hóa thạch. Tốc độ tăng CH cũng đã giảm kể từ những năm đầu thập kỷ 90.
Kể từ 1750, nồng độ CO, CH, NO trong khí quyển toàn cầu tăng rõ rệt do các hoạt động của con người và hiện nay vượt xa so với mức của thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, làm tan chảy cả các khối băng đã tồn tại qua hàng nghìn năm.
Hầu hết sự gia tăng nhiệt độ trung bình trên toàn cầu quan sát được từ giữa thế kỷ 20 có thể do tăng nồng độ khí nhà kính. Trong hơn 50 năm qua, nhiệt độ ở các lục địa (trừ Nam Cực) đã tăng lên đáng kể.
Nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển. Từ năm 1961, mực nước biển trung bình trên toàn cầu dâng cao với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm (từ 1,3-2,3 mm/năm) và từ năm 1993 ở mức 3,1mm/năm (từ 2,4- 3,8 mm/năm), do sự dãn nở vì nhiệt, tan các mũ băng và những tảng băng ở vùng cực. Tốc độ băng tan diễn ra nhanh nhất trong thời gian từ 1993 đến 2003 thể hiện sự biến đổi trong một thập kỷ, chứ chưa phải là một xu thế tan chảy dài hạn rõ ràng.
Nóng lên toàn cầu làm giảm lượng băng và tuyết. Dữ liệu vệ tinh từ năm 1978 chỉ ra rằng, trung bình hàng năm, diện tích băng biển ở Bắc cực giảm khoảng 2,7%/thập kỷ (từ 2,1-3,3%/thập kỷ), mức giảm lớn nhất trong mùa hè là 7,4%/thập kỷ (5,0-9,8%/thập kỷ). Độ che phủ băng và tuyết ở vùng núi nhìn chung giảm ở cả hai bán cầu.
Từ năm 1900 đến 2005, lượng mưa tăng đáng kể ở các khu vực phía đông của Bắc và Nam Mỹ, Bắc Âu, Bắc và Trung Á, nhưng giảm ở Sahel, Địa Trung Hải, Nam Phi và các khu vực Nam Á. Tổng diện tích bị ảnh hưởng bởi hạn hán đã tăng lên từ những năm 1970.
Rõ ràng là trong hơn 50 năm qua: số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá ít hơn ở hầu hết các khu vực đất liền và tăng số ngày nóng, đêm nóng. Các đợt sóng nhiệt trở nên thường xuyên hơn ở hầu hết các khu vực đất liền, tần suất của các hiện tượng như mưa lớn tăng ở hầu hết các khu vực và kể từ năm 1975 phạm vi ảnh hưởng của mực nước biển cao tăng trên toàn thế giới.
Bão nhiệt đới gia tăng, xuất hiện với cường độ mạnh ở Bắc Đại Tây Dương từ khoảng năm 1970 và không thấy tăng lên ở những nơi khác. Cũng không có xu thế rõ ràng về số lượng các cơn bão nhiệt đới hàng năm. Khó có thể xác định được xu hướng lâu dài về hoạt động của bão, đặc biệt trước năm 1970.
Nhiệt độ trung bình của Bắc bán cầu trong nửa sau của thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ giai đoạn 50 năm nào trong 500 năm gần đây và có thể cao nhất trong ít nhất 1300 năm qua. Bằng chứng quan sát được từ tất cả các châu lục và hầu hết các đại dương chỉ ra rằng, nhiều hệ thống tự nhiên đang bị ảnh hưởng bởi những biến đổi khí hậu khu vực, đặc biệt là nhiệt độ tăng.
Những biến đổi về tuyết, băng và các vùng đất đóng băng, kích thước các hồ băng và sự bất ổn ở các vùng núi và vùng đóng băng khác dẫn đến những thay đổi ở một số hệ sinh thái ở Nam Cực và Bắc Cực.
Một số hệ sinh thái dưới nước cũng bị ảnh hưởng do tăng lưu lượng nước, ảnh hưởng đến cấu trúc nhiệt và chất lượng nước sông hồ. Với các hệ sinh thái trên cạn, mùa xuân đến sớm hơn, xu thế dịch chuyển lên các cực và dịch chuyển lên cao đối với một số hệ động vật, thực vật có liên quan đến hiện tượng nóng lên gần đây. Còn với các hệ sinh thái biển và nước ngọt, những thay đổi về hệ động vật, thực vật và sự phong phú của tảo, sinh vật phù du và cá liên quan đến sự gia tăng nhiệt độ của nước, cũng như liên quan đến những thay đổi về độ che phủ của băng, độ mặn, hàm lượng ôxy và sự lưu thông của nước.
III. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu tới Việt Nam và hướng giải pháp khắc phục.
3.1. Ảnh hướng của biến đổi khi hậu tới Việt Nam.
Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP, 2007), Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất trước sự biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1m, Việt Nam sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội (GDP). Nước biển dâng 3-5m đồng nghĩa với một thảm họa có thể xảy ra ở Việt Nam.
Thực tế những biểu hiện gần đây của biến đổi khí hậu toàn cầu ở nước ta hiện nay là khá nghiêm trọng:
Trong những năm gần đây bão, lũ lụt ở nước ta có chiều hướng gia tăng và biến động rất thất thường.
Hiện tượng El Nino đã gây ra hạn hán nghiêm trọng tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ với thiệt hại 312 triệu USD.
Trong 5 năm gần đây, các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng liên tục phải đối phó với hạn hán gay gắt do mực nước sông Hồng liên tục xuống thấp đến mức lịch sử.
Việt Nam có hai thành phố ven biển lớn nhất là Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu trong vòng 20-50 năm tới.
Biến đổi khí hậu đã tác động đến hàng chục triệu người Việt Nam khiến cho cuộc sống người nghèo và những người cận nghèo ở vùng núi, vùng biển, vùng đồng bằng bị đe dọa.
Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Trong vài chục năm tới nhiệt độ trung bình ở VN có thể tăng lên 3C và mực nước biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100.
3.2. Các phương án khắc phục biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Không phải cho đến bây giờ, Chính phủ Việt Nam mới quan tâm đến vấn đề khí hậu và nước biển dâng cao hiện nay. Có thể kể ra một số sự chuẩn bị cụ thể của Việt Nam trước tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở cấp quốc tế, Việt Nam đã ký và phê chuẩn Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu và trở thành một bên của Công ước ngày 25/09/2005. Mặc dù Việt Nam không thuộc các nước phải tuân thủ lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính, song Việt Nam vẫn có thể chủ động xây dựng kế hoạch hành động phù hợp ngay từ bây giờ để tránh những tổn thất trực tiếp cũng như những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế- xã hội và sự phát triển bền vững của quốc gia. Ở cấp quốc gia, Việt Nam đã lồng ghép chống biến đổi khí hậu vào Luật bảo vệ môi trường, các chương trình như Chương trình nghị sự Agenda 21 của Việt Nam, Chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và ven biển, Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020…
Trước nguy cơ ảnh hưởng và cảnh báo về biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Việt Nam cần làm gì để ứng phó với hiểm họa này. Các hành động trước mắt và lâu dài cần được xem xét và cân nhắc kỹ nhằm thích ứng và giảm nhẹ những tác động bất lợi cho nền kinh tế và đời sống con người. Tại Hội thảo về Biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam diễn ra tháng 2/2008, các nhà khoa học và các nhà quản lý đã đề xuất 8 giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam gồm:
Chấp nhận tổn thất: Phương pháp thích ứng này là phản ứng cơ bản “không làm gì cả”.
Chia sẻ tổn thất: Chia sẻ tổn thất giữa cộng đồng dân cư, bảo hiểm.
Làm thay đổi nguy cơ: giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
Ngăn ngừa các tác động: Thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động của biến đổi khí hậu và bất ổn của khí hậu.
Thay đổi cách sử dụng: biến đổi khí hậu khiến các hoạt động kinh tế không thể thực hiện thì có thể thay đổi cách sử dụng.
Thay đổi/chuyển địa điểm: thay đổi/chuyển địa điểm của các hoạt động kinh tế.
Nghiên cứu: phát triển công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng.
Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Phổ biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi.
IV. KẾT LUẬN.
Các nguyên nhân gây biến đổi khí hậu rất đa dạng và phức tạp, do cả tự nhiên và do con người. Nhưng rõ ràng là con người là tác động đẩy nhanh quá trình này trong vài thập kỷ qua.
Nhằm hạn chế tốc độ biến đổi khí hậu, cần định hướng phát triển toàn cầu theo lộ trình hướng tới một nền kinh tế xanh-sạch, ít cácbon; cắt giảm khí thải nhà kính gây nóng lên toàn cầu chủ yếu ở các lĩnh vực năng lượng, công nghiệp và giao thông; cắt giảm trợ cấp cho các nguồn năng lượng hóa thạch; tăng cường sử dụng hiệu quả năng lượng, nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới, thân thiện với môi trường.
Tác động của biến đổi khí hậu không trừ đất nước nào, dù cho nước đó không góp nhiều vào nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. Theo đánh giá, Việt Nam là nước đang phát triển nằm trong nhóm nước dễ bị tổn thương trước mực nước biển dâng cao.
Để làm giảm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, cần xác định rõ hai mục tiêu giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu với một trong những hậu quả quan trọng nhất đối với Việt Nam là nguy cơ nước biển dâng cao. Các giải pháp thực hiện hai mục tiêu này có thể rất đa dạng, như tăng cường các hoạt động nghiên cứu gồm đo đạc, đánh giá hiện tượng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, từ đó đưa ra các chính sách và kế hoạch hành động, tổ chức và thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu sự biến đổi khí hậu và các tác động bất lợi đến con người và môi trường, xác định và tổ chức các hành động thích ứng để đối phó với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao. Trong các giải pháp chiến lược này, tăng cường khoa học công nghệ và nâng cao nhận thức cho cộng đồng cần được chú trọng.
VẤN ĐỀ LẮNG ĐỌNG AXIT
Lắng đọng axit (Acid deposition) hiện đang là một trong những vấn nhiễm bẩn môi trường quan trọng nhất không chỉ vì mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng tới cuộc sống của con người và các hệ sinh thái mà còn vì quy mô tác động của chúng đã vượt ra khỏi phạm vi kiểm soat của mỗi quốc gia và nhân loại đang phải xem xét những ảnh hưởng của chúng ở khu vực và toàn cầu.
Lắng đọng axit là một hiện tượng đã được phát hiện từ lâu song được chú ý nhiều nhất từ khoảng những năm 80 cho tới nay do tác hại của chúng gây ra ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới.Lắng đọng axit được tạo thành trong điều kiện khí quyển ô nhiễm do sự phát thải quá mức các khí SO2, NOx từ các nguồn thải công nghiệp và có khả năng lan xa tới hàng trăm, hàng ngàn kilomet. Bởi vậy, có thể nguồn phát thải sinh ra từ quốc gia này nhưng lại có ảnh hưởng tới nhiều quốc gia lân bang do sự chuyển động quy mô lớn trong khí quyển.Lắng đọng axit gây ra những hậu quả nghiêm trọng về người và của: làm hư hại mùa màng, giảm năng suất cây trồng, phá huỷ rừng cây, đe doạ cuộc sống của các loài sinh vật ở dưới nước và trên cạn, phá hoại các công trình kiến trúc,xây dựng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ con người...Thiệt hại hàng năm trên toàn cầu ước tính hàng tỷ đôla Mỹ. Những tác động tiêu cực này thường kéo dài và khó khắc phục.Bởi vậy, hiện nay vấn đề lắng đọng axit là vấn đề toàn nhân loại cần quan tâm.
Thuật ngữ lắng đọng axit bao gồm cả hai hình thức: lắng đọng khô ( dry deposition) và lắng đọng ướt. Lắng đọng ướt có thể thể hiện dưới nhiều dạng ( trước đây thường quen gọi chung là Mưa axit): mưa, tuyết, sương mù, hơi nước có tính axit; còn lắng đọng khô bao gồm các dạng: khí (gases), hạt bụi (particulate) và sol khí (aerosol) có tính axit.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này bài tiểu luận của em sẽ đi sâu tìm hiểu về lắng đọng axit trên một số phương diện cụ thể như sau:
Phần một: Cơ chế hình thành
Phần hai: Ảnh hưởng của lắng đọng axit
Phần ba: Biện pháp khắc phục
I. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH
Lắng đọng axít là hiện tượng được tạo thành trong điều kiện khí quyển bị ô nhiễm các khí SO2,NOx lắng đọng xuống bề mặt trái đất ở trạng thái khô như bụi,khí gas,sol khí có tính axit,ở dạng ướt (mưa axit);mưa tuyết ,sương mù có tính axit.
Độ acid được đo bằng thang pH (thang logarith), trong đó pH = 7 để chỉ các dung dịch trung tính. Thông thường pH = 5,6 (pH 5,6 là mức pH của nước bão hoà khí CO2) được coi là cơ sở để xác định mưa acid. Điều này có nghĩa là bất kỳ một trận mưa nào có độ acid thấp hơn 5,6 được gọi là mưa acid. Cũng cần nói thêm rằng, trong giới chuyên môn đôi khi người ta dùng thuật ngữ "sự lắng đọng acid" (Acid deposition), thay vì mưa acid (acid rain). Hai thuật ngữ này khác nhau ở chỗ acid deposition là sự lắng đọng của acid trong khí quyển xuống bề mặt Trái đất (kế cả dạng khô [các hạt bụi] hay dạng ướt [mưa acid]), còn mưa acid chỉ thuần túy nói về sự lắng đọng acid trong khí quyển xuống bề mặt Trái đất ở dạng ướt.Trước tiên ta đi xét su tạo thành mưa axit-một nguyên nhân quan trọng cửa sự lắng đọng axit trong tự nhiên.
Cơ chế hình thành mưa acid là cơ chế hình thành những chất hoá học hình thành lênacid, đó là SO2,NOx,các chất này từ các nguồn khác nhau được thải vào bầu khí quyển.trong khí quyển những chấtnày trải qua nhiều phản ứng hoa học khác nhau,kết hợp với nước tạo thành các hạt acid sulfuric(H2SO4), acid nitơric (HNO3). Khi trời mưa, tuyết,các hạt acid này tan trong nước mưa, hoặc lắng đọng trong tuyết làm độ PH giảm, gâymưa acid .
Quá trình tạo nên mưa acid:
Trong thành phần các chất đốt tự nhiên như than đá và dầu mỏ có chứa một lượng lớn lưu huỳnh, còn trong không khí lại chứa nhiều nitơ. Quá trình đốt sản sinh ra các khí độc hại như : lưu huỳnh đioxit (SO) và nitơ đioxit (NO2). Các khí này hòa tan với hơi nước trong không khí tạo thành các axit sunfuric (H2SO4) và axit nitric(HNO3).
Khi trời mưa, các hạt axit này tan lẫn vào nước mưa, làm độ pH của nước mưa giảm.
Nếu nước mưa có độ pH dưới 5 được gọi là mưa axit. Do có độ chua khá lớn, nước mưa có thể hoà tan được một số bụi kim loại và ôxit kim loại có trong không khí như ôxit chì,... làm cho nước mưa trở nên độc hơn nữa đối với cây cối, vật nuôi và con người.
Cơ chế hóa học của quá trình chuyển đổi SO2 và NOx thành acid
Đối với SO
- Ở pha khí: Ở pha khí có nhiều phản ứng khác nhau để chuyển đổi SO thành acid sulfuric. Một trong những phản ứng đó là phản ứng quang oxy hóa SO bởi tia UV. Tuy nhiên, phản ứng này đóng góp một phần không quan trọng vào việc tạo thành acid sulfuric. Loại phản ứng thứ hai là quá trình oxy hóa SO2 bởi oxygen trong khí quyển, phản ứng diễn ra như sau:
2 SO2 + O2 ---> 2 SO3 (1)SO3 + H2O ---> H2SO4 (2)
Phản ứng số 2 xảy ra với tốc độ nhanh, trong khi phản ứng số 1 xảy ra rất chậm, do đó loại phản ứng số 2 này cũng đóng vai trò không quan trọng trong việc chuyển đổi SO2 thành acid sulfuric. Một số phản ứng khác cũng đóng vai trò không quan trọng trong việc chuyển đổi SO2 thành acid sulfuric bao gồm phản ứng oxy hóa bởi sản phẩm của phản ứng alkene - ozone, oxy hóa bởi phản ứng của các chất NxOy, oxy hóa bởi gốc peroxy.Chỉ có loại phản ứng sau đây đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi SO2 thành acid sulfuric, phản ứng diễn ra như sau:
HO + SO2(+M) ---> HOSO2(+M)
Phản ứng này diễn ra với tốc độ rất nhanh, gốc hydroxy cần cho phản ứng được tạo ra bởi quá trình phân hủy quang học ozone.
- Ở pha lỏng:Ở pha lỏng SO2 tồn tại ở 3 dạng:
[S(IV) ---> [SO2 (aq)] + [HSO3-] + [SO32-]
Quá trình phân ly diễn ra như sau:
SO2 (aq) ---> H+ + HSO3-HSO3- (aq) ---> H+ + SO32-
Việc thiết lập cân bằng 2 phương trình trên phụ thuộc vào pH, kích thước các hạt nước, "hệ số liên kết" giữa nước và SO2. Phản ứng oxy hóa SO2 ở pha lỏng nhờ vào các xúc tác kim loại như