Ngày nay, nhắc tới Mỹ là nhắc tới một cường quốc số 1 thế giới ở hầu hết các lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục. Nhưng khoảng hơn 200 năm trước đây, khi mới giành được độc lập, Mỹ chỉ là một quốc gia nhược tiểu với nền kinh tế và quốc phòng non trẻ, dễ bị xâm chiếm lại bởi các quốc gia Châu Âu hùng mạnh. Vậy tại sao hơn 200 năm sau, đất nước này lại vươn lên một cách thần kỳ, trở thành một quốc gia hùng mạnh như vậy?
Tìm hiểu về các chính sách đối ngoại của Mỹ chính là một cách tiếp cận hay để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự lớn mạnh về mặt kinh tế, sự ảnh hưởng về mặt chính trị của Mỹ ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay. Trong phạm vi đề tài của em, em chỉ giới hạn tìm hiểu các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XIX và sang đầu thế kỷ XX.
Do kiến thức của em còn hạn hẹp, trong bài tiểu luận này khó tránh khỏi những sai sót, kính mong sự đóng góp của thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Bài tiểu luận của em được tìm hiểu theo 2 nội dung lớn như sau:
I. Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
II. Các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
19 trang |
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 4491 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách đối ngoại của hoa kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BỘ MÔN HOA KỲ HỌC
TIỂU LUẬN
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ CUỐI THẾ KỶ 19
ĐẦU THẾ KỶ 20
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng
Lớp : CT38H – 0104
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, nhắc tới Mỹ là nhắc tới một cường quốc số 1 thế giới ở hầu hết các lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục... Nhưng khoảng hơn 200 năm trước đây, khi mới giành được độc lập, Mỹ chỉ là một quốc gia nhược tiểu với nền kinh tế và quốc phòng non trẻ, dễ bị xâm chiếm lại bởi các quốc gia Châu Âu hùng mạnh. Vậy tại sao hơn 200 năm sau, đất nước này lại vươn lên một cách thần kỳ, trở thành một quốc gia hùng mạnh như vậy?
Tìm hiểu về các chính sách đối ngoại của Mỹ chính là một cách tiếp cận hay để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự lớn mạnh về mặt kinh tế, sự ảnh hưởng về mặt chính trị của Mỹ ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay. Trong phạm vi đề tài của em, em chỉ giới hạn tìm hiểu các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XIX và sang đầu thế kỷ XX.
Do kiến thức của em còn hạn hẹp, trong bài tiểu luận này khó tránh khỏi những sai sót, kính mong sự đóng góp của thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Bài tiểu luận của em được tìm hiểu theo 2 nội dung lớn như sau:
Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
Các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
NỘI DUNG TÌM HIỂU
I. Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
Chính sách đối ngoại của một quốc gia nói chung là những hoạt động được đưa ra bởi chính phủ quốc gia đó nhằm thực hiện các mục tiêu trong quan hệ với các quốc gia và chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế. Nói cách khác, chính sách đối ngoại của một quốc gia là tất yếu khách quan trong quan hệ giữa một quốc gia và các nước khác trên thế giới, là công cụ để đảm bảo lợi ích của các quốc gia, góp phần lớn vào sự phát triển của đất nước đó. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau và trong mỗi khu vực khác nhau, chính sách đối ngoại của các quốc gia đều có sự khác biệt.
Với Hoa Kỳ (còn được gọi là Mỹ), chính sách đối ngoại đóng một vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước này, góp phần lớn đưa Hoa Kỳ từ một quốc gia nhược tiểu những năm đầu lập quốc thành một cường quốc số một trên thế giới như hiện nay. Xuyên suốt quá trình phát triển của nước Mỹ, các chính sách đối ngoại của nước này chủ yếu được quyết định và có nguồn gốc từ các tổng thống. Tuy nhiên, các yếu tố bối cảnh trong nước, quốc tế và hệ tư tưởng và một số yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Nói về cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa kỳ, trước hết phải đề cập tới cơ sở về kinh tế. Có thể nói nền ngoại giao Mỹ có được sức mạnh đáng kể từ sức mạnh kinh tế. Với lợi thế vị trí địa lý thuận lợi, điều kiện tự nhiên phong phú, đất đai rộng, giàu tài nguyên thiên nhiên cùng với sự ảnh hưởng, áp dụng tích cực những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp Anh và tinh thần sáng tạo của người Mỹ, nước Mỹ đã nhanh chóng phát triển kinh tế cả về công nghiệp và nông nghiệp. Kinh tế phát triển đã thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm thị trường bên ngoài của Mỹ, do đó hình thành nên chính sách bành trướng của Mỹ. Ban đầu là sự xâm chiếm lãnh thổ bằng nhiều cách như chiếm, sát nhập, mua lại đất của người da đỏ, vùng lãnh thổ của các đế quốc Châu Âu gần Mỹ, sau này là sự can thiệp, thâm nhập, tạo ảnh hưởng tới thị trưởng các quốc gia khác (từ khi mà sự phân chia thị trường theo kiểu thực dân cơ bản đã chia xong).
Bên cạnh đó, ta còn phải kể đến yếu tố hệ tư tưởng trong quá trình hoạch định chính sách ngoại giao của Mỹ. Có thể nói, người Mỹ luôn có đức tin vào Chúa. Họ tin rằng Chúa luôn che chở, bảo vệ và đồng thời cũng ưu ái đối với người Mỹ, cho người Mỹ những quyền “hiển nhiên” mà các quốc gia khác không có được. Do đó, những lập luận, chủ thuyết theo kiểu “bành trướng do định mệnh” hay “định mệnh hiển nhiên” (manifest destiny) luôn được Mỹ sử dụng từ những ngày đầu lập quốc, đặc biệt vào đầu thế kỷ XIX để biện minh cho việc bành trướng lãnh thổ trước đây cũng như quyền mở rộng ảnh hưởng, “khai hóa” và “bảo vệ” cho các nước ở Tây bán cầu cũng như các nước trên toàn thế giới. Lý thuyết Darwin xã hội mà đưa ra giả thuyết về thế giới sinh học, nói về sự cạnh tranh tàn bạo mà trong đó sinh vật nào mạnh nhất, có khả năng thích nghi tốt nhất sẽ tồn tại cũng ăn sâu vào tư tưởng người Mỹ và được áp dụng để làm tiền đề cho việc hoạch định chính sách đối ngoại quốc gia. Những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội lập luận rằng: “trong thế giới tàn bạo của các quan hệ quốc tế, chỉ có những quốc gia thích nghi được mình với điều kiện mới và được chuẩn bị để tranh đấu thì mới tồn tại được” Dương Quang Hiệp – Nền tảng của việc bành trướng ra thế giới của Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX – số 7/2010 – trang 61
Bằng việc đưa ra những luận thuyết, lập luận, người Mỹ đã khẳng định quyền bành trướng hiển nhiên của họ, khẳng định chính sách đối ngoại của nước này.
Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác tác động lên việc hình thành chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nhưng yếu tố kinh tế và tư tưởng có thể được coi là hai yếu tố quan trọng nhất, đặc biệt là trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX. Giai đoạn này là một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển vượt bậc của nước Mỹ, đánh dấu sự phát triển từ một nước nhược tiểu, trở thành một nước có vị thế to lớn như ngày hôm nay. Qua việc tìm hiểu những chính sách đối ngoại cụ thể được chính phủ Mỹ đưa ra trong giai đoạn này, ta sẽ hiểu rõ hơn về sự phát triển và sức mạnh của nước Mỹ.
II. Các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
1. Học thuyết Monroe (1823)
1.1 Hoàn cảnh ra đời
Sau các phát kiến địa lý, trong khi phần lớn Bắc Mỹ nằm dưới sự cai quản của Anh thì hầu hết các nước Mỹ Latinh đều là thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sự kiện 13 thuộc địa của Anh hợp lại giành độc lập và lập nên nhà nước Hoa Kỳ đã tác động mạnh đến các quốc gia Mỹ Latinh, thôi thúc các nước này đứng lên giành độc lập, tự do cho riêng mình. Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX, miền Trung và Nam Mỹ đều hướng về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh Napoleon mà cụ thể là cuộc chinh phục Tây Ban Nha của Napoleon năm 1808 đã tạo cơ hội thuận lợi cho người Mỹ latinh vùng lên khởi nghĩa. Cho tới năm 1822, dưới sự lãnh đạo của Simon Boliviar, Francisco Miranda, José de San Martin và Miguel Hidalgo, tất cả các khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Châu Mỹ từ Argentina và Chile ở miền Nam tới Mexico ở miền Bắc đều giành được độc lập.
Tuy nhiên, chính lúc đó, Nga, Áo, Phổ đã thiết lập Liên minh Thần thánh để bảo vệ họ trước các cuộc cách mạng. Bằng việc can thiệp vào những nơi phong trào quần chúng đang đe dọa chế độ quân chủ, liên minh này – có sự tham gia của Pháp thời hậu Napoleon – đã hy vọng có thể ngăn chặn cách mạng lan rộng. Chính sách này đã đi ngược với quyền tự quyết của Mỹ và khiến người Mỹ lo âu. Mỹ lo lắng về ý định muốn phục hồi những thuộc địa cũ của Tây Ban Nha sẽ ảnh hưởng tới lợi ích thương mại của Mỹ cũng như là an ninh lãnh thổ nước Mỹ. Và bởi vì Mỹ latinh cũng có ý nghĩa quan trọng đối với lợi ích thương mại của Anh nên Anh cũng muốn ngăn chặn hành động này. Do đó, Anh hối thúc mở rộng các đảm bảo của Anh – Mỹ đối với Châu Mỹ latinh.
Về tình hình nước Mỹ, sau cuộc chiến tranh với Anh năm 1812, Mỹ chính thức chấm dứt sự phụ thuộc kinh tế vào các quốc gia Châu Âu. Kinh tế công nông nghiệp dần phát triển, đặc biệt là công nghiệp do động lực lấp khoảng trống trong thương mại với Châu Âu do chiến tranh. Cùng với đó là tư tưởng bành trướng cố hữu lại xuất hiện nhằm tìm kiếm thị trường, phát triển và củng cố thêm nền kinh tế. Ngoài tập trung phát triển kinh tế đất nước, người dân Mỹ còn dõi theo cuộc cách mạng ở Mỹ latinh. Các cuộc cách mạng này đã củng cố niềm tin của người Mỹ về quyền tự trị của họ. Do đó, năm 1822, trước áp lực ngày càng lớn của dư luận, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là James Monroe đã công nhận nền độc lập thực sự, hoàn toàn tách khỏi những mỗi ràng buộc với các đế quốc Châu Âu của các quốc gia Trung và Nam Mỹ, đồng thời trao đổi công sứ với các quốc gia này. Hơn thế nữa, tổng thống Monroe còn đưa ra Học thuyết Monroe với ý nghĩa bề nổi là tôn trọng và bảo vệ quyền tự do của người Châu Mỹ, khẳng định “Châu Mỹ là của người Châu Mỹ”.
1.2 Nội dung học thuyết Monroe
Vào tháng 12 năm 1823, nhân dịp gửi thông điệp hàng năm tới Quốc hội, tổng thống James Monroe đã đưa ra Học thuyết Monroe với 3 nội dung chính sau đây:
Các lục địa Châu Mỹ từ nay trở đi không thể được coi là đối tượng của thực dân hóa trong tương lai do bất cứ một cường quốc Châu Âu nào tiến hành.
Chúng ta phải coi bất kỳ toan tính nào về phần họ nhằm mở rộng hệ thống (chính trị) của họ tới bất cứ một bộ phận nào của bán cầu này đều là nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh của chúng ta.
Chúng ta đã không can thiệp và sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hay các xứ phụ thuộc nào của bất kỳ cường quốc Châu Âu nào. Nhưng với những chính phủ đã tuyên bố nền độc lập của mình và bảo vệ nền độc lập ấy và được chúng ta thừa nhận thì chúng ta phải coi bất kỳ một sự can thiệp nào nhằm mục đích áp chế họ hay kiểm soát số phận của họ bằng bất kỳ phương pháp nào do bất cứ cường quốc Châu Âu nào thực hiện đều thể hiện khuynh hướng thù địch với nước Mỹ Khái quát về lịch sử nước Mỹ - Ấn phẩm của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ - 2005
.
Trước hết phải khẳng định rằng, vào thời điểm học thuyết Monroe ra đời, nước Mỹ tuy đã thoát khỏi sự phục thuộc vào kinh tế các nước Châu Âu và dần phát triển kinh tế nhưng Mỹ vẫn chưa thực sự đủ mạnh để thực hiện những gì học thuyết Monroe đề ra nếu như không có sự ủng hộ của Anh. Tuy nhiên, ta phải công nhận rằng, sự ra đời của học thuyết này mang một ý nghĩa to lớn, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, tác động tới quan hệ quốc tế.
1.3 Ý nghĩa
Nhìn chung, vào thời điểm học thuyết Monroe mới được công bố, học thuyết này đã nhận được nhiều sự ủng hộ phần lớn từ các quốc gia Mỹ Latinh - các quốc gia mà đều hướng tới mục tiêu chung là giành được độc lập, tự do cho dân tộc, thoát khỏi sự ảnh hưởng của các cường quốc Châu Âu. Học thuyết này được xem như đã thể hiện được tinh thần đoàn kết của các quốc gia Châu Mỹ qua sự khẳng định “Châu Mỹ là của người Châu Mỹ”.
Không chỉ vậy, học thuyết Monroe còn là một lời cảnh báo tới các quốc gia Châu Âu hãy tránh xa lục địa Châu Mỹ nói chung và Mỹ latinh nói riêng. Thực chất, đây là một học thuyết nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng, với nỗ lực kiềm chế sự khôi phục và việc giành thêm thuộc địa mới, ngăn chặn những ảnh hưởng sâu rộng của hệ thống chính trị của các quốc gia Châu Âu ở lục địa này và cuối cùng là loại trừ ảnh hưởng của Châu Âu ra khỏi Châu Mỹ. Sự ra đời của học thuyết này được coi là một mốc đánh dấu sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chuyển từ chủ nghĩa trung lập sang chủ nghĩa bành trướng mà mục tiêu bành trướng ở đây trước hết là Mỹ Latinh. Mỹ muốn biến Mỹ Latinh thành “sân sau” của mình, tăng cường sự ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị của Mỹ ở vùng này. và có thể nói ẩn sau việc tuyên bố học thuyết Monroe là một nỗ lực bành trướng trên toàn bộ lục địa này nhưng bằng phương pháp hòa bình, mang tính chất nhân đạo, bảo vệ công lý và quyền tự do của con người.
Theo dõi xuyên suốt chiều dài lịch sử đối ngoại của Mỹ, ta còn thấy được Học thuyết Monroe là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ sau này, chỉ đạo một xu hướng trong chính sách đối ngoại Mỹ trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là sự ra đời của hệ luận Rossevelt, chính sách ngoại giao đô la, chính sách mở cửa
Ngoài ra, theo một số quan điểm, học thuyết Monroe chính là một động lực thực sự để thiết lập một chính sách an ninh quốc gia nhằm bảo vệ Mỹ. Theo như lời cựu Cựu thẩm phán tòa án tối cao và ứng cử viên tổng thống Woodrow Wilson vào năm 1916, Charles Evans Hughes thì “Học thuyết Monroe là một chính sách phòng thủ quốc gia một sự xác nhận nguyên lý của an ninh quốc gia”
. Việc Mỹ công nhận nền độc lập của những “hàng xóm” lận cận của mình, đưa ra học thuyết tránh cho những nước này chịu ảnh hưởng của quốc gia Châu Âu cũng chính là bảo vệ an ninh và lãnh thổ Mỹ.
2. Chính sách mở cửa
2.1 Hoàn cảnh ra đời
Như đã phân tích ở trên, sự ra đời của học thuyết Monroe với xu hướng trong chính sách đối ngoại của Mỹ là bành trướng, cho tới cuối thế kỷ XIX, nước Mỹ đã thành công trong việc bành trướng về phía Tây cũng như là xâm chiếm các quốc gia Mỹ Latinh như Cuba, Puerto Rico vốn là thuộc địa của Tây Ban Nha. Sự thành công này đã làm thăng thêm tham vọng và kích thích những ý nghĩ của người Mỹ rằng vận mệnh của họ là “khai hóa” cho toàn lục địa. Từ đó, Mỹ lại càng muốn tiếp tục bành trướng, mở rộng lợi ích của mình hơn. Khu vực Châu Á được coi là một đích đến của nước Mỹ và việc mở rộng lợi ích của Mỹ ở khu vực này được coi như là một “sứ mệnh hiển nhiên”.
Thêm vào đó, Tới cuối thế kỷ XIX, Anh đã suy yếu dần, còn Mỹ ngày càng mạnh thêm với lực lượng hải quân hùng hậu. Nắm được quyền lực biển là tiền đề quan trọng để Mỹ thực hiện chủ nghĩa bành trướng của mình, giành giật quyền lực thương mại với các cường quốc khác.
Mục tiêu cụ thể của Mỹ ở Châu Á là Trung Quốc, bởi đây là một thị trường đầy tiềm năng, Mục tiêu tiếp theo của Mỹ ở Đông Á là Trung Quốc. Đây được coi là một thị trường khổng lồ, một bàn tiệc mà bất cứ một cường quốc nào cũng thèm muốn. Tuy nhiên, vào thời điểm Mỹ hướng tới Trung Quốc thì quốc gia này thì Trung Quốc đã bị nhiều cường quốc như Anh, Pháp, Nga, Nhật xâu xé, phân chia phạm vi ảnh hưởng. Mỹ lo sợ rằng những phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc này ở Trung Quốc sẽ dần trở thành thuộc địa của những nước này. Điều này đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ gặp khó khăn trong việc đầu tư, trong quan hệ buôn bán cũng như trong việc áp đặt sự ảnh hưởng của Mỹ ở quốc gia tiềm năng này. (Thời gian này chỉ 1% giá trị hàng hóa của Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc, (khoảng 10 nghìn đô la trên tổng số 1 triệu 231 nghìn đô la năm 1898), trong khi đó Anh kiểm soát khoảng 70% thương mại Trung Quốc) Lester H Brune và Richard Dean Burn - Chronological history of US foreign relations – Volume 1: 1607 - 1932
. Do đó, để ngăn chặn nguy cơ nói trên, năm 1899 Mỹ đã đưa ra chính sách “Mở cửa” với Trung Quốc và kêu gọi các quốc gia khác cùng thực hiện.
2.2 Nội dung
Tháng 9 năm 1899, ngoại trưởng Mỹ John Hay dưới chính quyền tổng thống McKinley đã gửi công hàm ngoại giao tới các nước có phạm vi ảnh hưởng ở Trung Quốc, kêu gọi các nước này cùng thực hiện chính sách “Mở cửa” Dương Quang Hiệp – Từ chính sách “Mở cửa” Trung Quốc hiểu thêm về tính thực dụng trong chính sách đối ngoại của Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX – Tạp chí khoa học, ĐH Huế - 2008
do Mỹ đề ra với nội dung chính như sau:
Thứ nhất, các nước thừa nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.
Thứ hai, hàng hóa của các nước phải theo chế độ thuế quan của Trung Quốc và do chính phủ Trung Quốc thu thuế.
Thứ ba, không can thiệp vào lợi ích của các nước theo những điều khoản đã ký.
Thứ tư, tàu thuyền các nước đi lại trong thương cảng thuộc phạm vi các nước khác không được đánh thuế nhập khẩu cao hơn thuế suất quy định cho tàu thuyền của nước mình. Luận điểm này cũng được áp dụng trên lĩnh vực vận tải bằng xe lửa.
2.3 Ý nghĩa
Như vậy, ta có thể thấy được, chính sách “Mở cửa” đối với Trung Quốc mà Mỹ ban bố đã nhấn mạnh vào sự bình đẳng trong thương mại của tất cả các quốc gia trên lãnh thổ Trung Quốc, đó là Nga, Anh, Pháp, Ý. Tuy nhiên, trên thực tế, với việc ban bố chính sách “Mở cửa” đối với Trung Quốc, Mỹ muốn đoạt được những lợi thế từ tay người Trung Quốc, muốn xác lập vị thế hợp pháp và bình đẳng của mình ở thị trường Trung Quốc so với các cường quốc khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Mỹ tiếp cận và cạnh tranh với các công ty nước ngoài ở thị trường to lớn này. Thực ra, vào thời điểm cuối thế kỷ XIX, Mỹ dù đã mạnh lên rất nhiều so với hồi đầu lập quốc nhưng vẫn chưa đủ sức để can thiệp một cách trực tiếp vào Trung Quốc vì đây là một thị trường rộng lớn, một quốc gia đông dân có bề dày lịch sử. Hơn nữa, trên lãnh thổ Trung Quốc nước này đã có sự hiện diện của các cường quốc Châu Âu với những phạm vi ảnh hưởng riêng. Do đó, không có chính sách nào phù hợp hơn để xâu xé quyền lợi ở thị trường này cũng như tăng cường sự ảnh hưởng của Mỹ mà không bị Trung Quốc hay các cường quốc kia phản đối. Đồng thời, với chính sách này, Mỹ muốn ngăn chặn các nước đế quốc tiếp tục xâm chiếm Trung Quốc, biến những khu vực ảnh hưởng của những nước này thành thuộc địa của riêng họ, làm ảnh hưởng đến thương mại cũng như những lợi ích của Mỹ ở nước này. Ngoài ra, với chính sách “Mở cửa” Mỹ không những bảo vệ được những lợi ích của mình mà còn không làm mất chỗ đứng chính trị hay xâm hại đến quyền tự do của người dân, dân tộc mà Mỹ vẫn nêu cao cũng như không tạo gánh nặng cho quân đội Mỹ.
Việc thực hiện chính sách “Mở cửa đối với Trung Quốc được dư luận Mỹ đánh giá rất cao. Đối với người Mỹ, đây là một trong những chính sách đáng được ghi nhớ nhất trong lịch sử nước này. Mark Sullivan trong cuốn sách “Thời đại của chúng ta: sự chuyển đổi thế kỷ” (tên tiếng anh là Our Time: The turn of the century) đã viết: “Chính sách “mở cửa” của Trung Quốc là một ý tưởng của người Mỹ. Nó được hình thành nhằm tương phản với chính sách “phạm vi ảnh hưởng” được thực thi bởi các cường quốc khác. Chính sách “mở cửa” là một trong những chương/đoạn đáng được khen ngợi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, là một minh chứng của năng lực, kỹ năng khôn ngoan, sắc sảo đi kèm là sự thúc đẩy thiện chí trong quá trình đàm phán. Không một chính khách và quốc gia nào không thể không đồng ý với mong muốn mà chính sách của John Hay đưa ra, John Hay đã nhìn nhận thông suốt vấn đề một cách hoàn hảo”.
Tóm lại, mục tiêu rõ ràng nhất của chính sách “Mở cửa” đối với nước Mỹ đó là một công cụ ngoại giao khôn ngoan để bành trướng, xâm lược Trung Quốc và dần là bành trướng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với phương thức “thương mại đi trước, cờ Mỹ theo sau”. Những năm sau đó, sự việc Mỹ đưa quân viễn chinh cùng với liên quân Anh, Đức, Pháp, Nhật, Ý và Nga tiến vào thành phố Bắc Kinh, đàn áp phong trào Nghĩa Hoà Đoàn của nhân dân Trung Quốc là một minh chứng tiếp theo cho ý đồ xâm lược này của Mỹ.
Như vậy, qua việc thực hiện chính sách “Mở cửa”, ta còn thấy được Mỹ được các nước khác coi như một nhân tố quan trọng trong những vấn đề thế giới. Đồng thời, việc thực hiện chính sách này cũng tạo cầu nối giữa việc thực thi chính sách đối ngoại Mỹ thế kỷ XIX với việc đáp ứng nhu cầu bành trướng của nền công nghiệp Mỹ đầu thế kỷ XX Trần Thiện Thanh – Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ giai đoạn 1865 – 1904 – Tạp chí Châu Mỹ ngày nay - Số 4/2007 – trang 46
.
Còn đối với các nước cường quốc như Anh, Pháp, Nga, Italia, khi nhận được một văn bản ngoại giao từ Mỹ yêu cầu các nước này đồng ý với chính sách “Mở cửa” các quốc gia đều không đồng tình với chính sách mà có lợi cho Mỹ này nhưng không từ chối ngay lập tức. Những nước này lợi dụng chính sách “Mở cửa” để tạm thời hòa hoãn những mâu thuẫn, thừa nhận phạm vi ảnh hưởng của nhau, biến chính sách này thành một hiệp định chia cắt Trung Quốc.
3. Chính sách cây gậy lớn
3.1 Hoàn cảnh ra đời
Thời điểm cuối thế kỷ XIX, Mỹ đã thành công trong việc bành trướng về phía Tây, tăng cường ảnh hưởng của mình ở nhiều nước Mỹ Latinh. Do đó, khi tổng thống Theodore Roosevelt (1901 – 1909) lên nắm quyền, dựa trên những thành công của chính quyền trước, T.Roosevelt tiếp tục mục tiêu bành trướng ra bên ngoài – mục tiêu mà xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Tại Mỹ Latinh, Mỹ tiếp tục cố gắng làm cho khẩu hiệu lý thuyết “châu Mỹ là của người châu Mỹ” mà thực chất là “Châu Mỹ là của người Mỹ” thành hiện thực. Do đó, năm 1904, Mỹ tuyên bố về chính sách ngoại giao “Cây gậy lớn” với ý nghĩa bảo đảm lợi ích của Mỹ ở Tây Bán Cầu thông qua chủ trương can thiệp quân sự.
3.2 Nội dung
Chính sách ngoại giao “C