Kế hoạch (KH) là một trong những công cụ quản lý quan trọng của các cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương. KH tốt là điều kiện tiền đề để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của công tác KH đã và đang tiếp tục được khẳng định. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển từ KH hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì bản chất và phương pháp lập KH cũng cần thay đổi. Vậy sự thay đổi đó là gì? Nó có thể góp phần ra sao vào quá trình phát triển của quốc gia hoặc địa phương và trong điều kiện thể chế hiện nay, chúng ta có thể làm gì để từng bước hoàn thiện công tác KH của mình theo hướng đổi mới? Đó là những câu hỏi sẽ được làm rõ trong tài liệu này.
Nội dung chính của tài liệu này là: lý giải vì sao công cụ KH vẫn rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường; sau đó so sánh với KH kiểu cũ để thấy rõ yêu cầu cần đổi mới; những tiếp cận mới cần được áp dụng trong đổi mới KHH; những bất cập trong công tác KH hiện nay dưới con mắt đổi mới; những yêu cầu và nội dung cần đổi mới trong lập KH
Kết cấu của tài liệu gồm 4 phần:
- Sự cần thiết của KH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) trong nền kinh tế thị trường
- Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ chế tập trung mệnh lệnh
- Những tiếp cận mới trong công tác KH
- Những bất cập trong lập KH hiện nay và những vấn đề tiếp tục đổi mới
36 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường: yêu cầu và phương hướng đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG TÁC KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: YÊU CẦU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI
PGS. TS. Ngô Thắng Lợi
“Thất bại trong việc lập kế hoạch là lập kế hoạch cho sự thất bại”
Mở đầu
Kế hoạch (KH) là một trong những công cụ quản lý quan trọng của các cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương. KH tốt là điều kiện tiền đề để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của công tác KH đã và đang tiếp tục được khẳng định. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển từ KH hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì bản chất và phương pháp lập KH cũng cần thay đổi. Vậy sự thay đổi đó là gì? Nó có thể góp phần ra sao vào quá trình phát triển của quốc gia hoặc địa phương và trong điều kiện thể chế hiện nay, chúng ta có thể làm gì để từng bước hoàn thiện công tác KH của mình theo hướng đổi mới? Đó là những câu hỏi sẽ được làm rõ trong tài liệu này.
Nội dung chính của tài liệu này là: lý giải vì sao công cụ KH vẫn rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường; sau đó so sánh với KH kiểu cũ để thấy rõ yêu cầu cần đổi mới; những tiếp cận mới cần được áp dụng trong đổi mới KHH; những bất cập trong công tác KH hiện nay dưới con mắt đổi mới; những yêu cầu và nội dung cần đổi mới trong lập KH
Kết cấu của tài liệu gồm 4 phần:
Sự cần thiết của KH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) trong nền kinh tế thị trường
Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ chế tập trung mệnh lệnh
Những tiếp cận mới trong công tác KH
Những bất cập trong lập KH hiện nay và những vấn đề tiếp tục đổi mới
Sự cần thiết của KH đối với sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường
KH là công cụ của nhà nước (các cấp) để can thiệp vào nền kinh tế thị trường
Vai trò của nhà nước (các cấp) trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, nhưng nó cũng không phải là lý tưởng như nhiều người mong muốn, rất nhiều hạn chế từ cơ chế điều tiết của thị trường gây ra và những hạn chế đó đã đem đến hậu quả không nhỏ đối với nền kinh tế. Đó là những cơ sở rất quan trọng để nghiên cứu một vấn đề không kém phần quan trọng trong lý luận và thực tiễn ở phần lớn các quốc gia trên thế giới hiện nay: vấn đề vai trò và nội dung can thiệp của chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước là một tổ chức được thiết lập để thực thi những quyền lực nhất định, điều tiết hành vi của các cá nhân sống trong xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội đó và tài trợ cho việc cung cấp những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà xã hội đó có nhu cầu. Vấn đề là ở chỗ cần biết rõ Chính phủ làm những gì và chức năng quyền hạn của Chính phủ đến đâu? Câu trả lời đúng được dựa trên nhiều yếu tố, nhưng điều quan trọng là từ việc xác định những lý do của sự cần thiết phải có sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị trường. Tổng hợp từ lý luận kinh tế học cũng như thực tiễn thực hiện sự can thiệp vào nền kinh tế của chính phủ nhiều nước, trong đó có ở Việt Nam, cho thấy có ít nhất ba lý do chính lập luận cho sự can thiệp của Chính phủ:
1.1.1. Nhà nước can thiệp nhằm khắc phục các khuyết tật thị trường, hướng hoạt động của thị trường vào hiệu quả xã hội
Bản thân thị trường có thể đem đến những kết cục phi hiệu quả. Chính phủ can thiệp sẽ hy vọng hướng thị trường hoạt động theo hướng có hiệu quả hơn. Trong trường hợp thị trường độc quyền, Chính phủ can thiệp nhằm kiểm soát chặt chẽ thị trường, để đảm bảo rằng các rào cản đối với sự gia nhập thị trường không trở thành những phương tiện khuyến khích quyền lực độc quyền. Đối với các ngoại ứng Ngoại ứng là một thuật ngữ kinh tế để chỉ những trường hợp hoạt động của những đối tượng trên thị trường gây ảnh hưởng đến một đối tượng khác mà những ảnh hưởng đó không được phản ánh trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Ví dụ điển hình nhất của ngoại ứng (tiêu cực) là ô nhiễm môi trường, trong đó các doanh nghiệp sản xuất và làm tổn hại đến môi trường, nhưng họ không quan tâm đến điều đó một khi họ không phải đền bù cho những thiệt hại môi trường mà họ gây ra.
, Chính phủ can thiệp để buộc các bên tham gia giao dịch thị trường phải tính đến tác động của mình gây ra cho đối tượng thứ ba, nhờ đó có thể điều chỉnh các hoạt động của thị trường đạt tới mức tối ưu xã hội. Chẳng hạn, đối với ngoại ứng tích cực, chính phủ có thể khuyến khích việc gia tăng sản xuất bằng cách trợ cấp cho người tạo ra ngoại ứng tích cực (trợ giá cho việc tiêm chủng là một thí dụ). Ngược lại, với ngoại ứng tiêu cực, chính phủ có thể đánh thuế để “phạt” những người gây thiệt hại cho xã hội. Chính phủ cần đứng ra để thực hiện việc cung cấp hàng hóa công cộng (chẳng hạn như đường sá, cầu cống và hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH) vì những loại hàng hoá này rất cần cho sự vận hành của nền kinh tế nhưng khu vực tư nhân lại từ chối cung cấp. Sự can thiệp của Chính phủ trong các thị trường sẽ bổ sung thông tin cho thị trường, hoặc kiểm soát hành vi của những bên có lợi thế về thông tin để đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. Vai trò này ngày càng được nhận thức là vô cùng quan trọng, nhất là trong thời đại công nghệ thông tin. Việc chính phủ ra các qui định nghiêm ngặt về thông tin hướng dẫn sử dụng thực phẩm dược phẩm là một thí dụ rõ ràng cho sự điều tiết của chính phủ trong trường hợp này. Cuối cùng, khuyết tật về sự bất ổn định do nền kinh tế do thị trường gây ra (giá cả bất ổn định, lạm phát, thất nghiệp...) có khả năng được khắc phục khi Chính phủ can thiệp bằng việc chủ động đưa ra và thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau để đưa nền kinh tế trở về trạng thái ổn định lâu dài.
1.1.2. Nhà nước can thiệp nhằm thực hiện những hoạt động mà thị trường không điều tiết
Những thất bại thị trường đặt vấn đề cần phải có sự can thiệp của Chính phủ nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy vậy, ngay cả khi nền kinh tế vận hành có hiệu quả, thì vẫn còn hai lý do nữa để Chính phủ cần phải can thiệp, đó là phân phối lại thu nhập nhằm thực hiện công bằng xã hội và hàng hóa khuyến dụng.
(1) Vấn đề phân phối lại thu nhập và tạo cơ hội kinh tế cho mọi người:
Sự không hoàn hảo của thị trường thường dẫn đến kết cục là sự thiếu công bằng. Chính phủ phải có trách nhiệm thực hiện việc phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ giúp cho các đối tượng dễ tổn thương như người già, người nghèo, trẻ em, người tàn tật. Thông thường, Chính phủ có thể tiến hành các chương trình trợ cấp trực tiếp cho từng cá nhân để giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Nhiều khi các chương trình phân phối lại còn được thực hiện dưới dạng cung cấp các phương tiện, dịch vụ cho cả cộng đồng như chương trình 135 (xây dựng điện, đường, trường, trạm ở nông thôn); chương trình nước sạch nông thôn; chương trình xóa đói giảm nghèo v.v...
Mặt khác, việc sử dụng quyền lực của Chính phủ để tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân, không phân biệt tình trạng cá nhân, có thể làm lợi cho xã hội nói chung vì nó sẽ giúp các cá nhân có nhiều cơ hội hơn để đặt năng lực của mình vào công việc phù hợp nhất, có năng suất cao nhất.
(2) Vấn đề hàng hóa khuyến dụng
Những hàng hóa hay dịch vụ mà việc tiêu dùng chúng có lợi cho cá nhân và xã hội, nhưng cá nhân không tự nguyện tiêu dùng, khiến chính phủ phải bắt buộc họ sử dụng gọi là hàng hóa khuyến dụng.
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, cá nhân nói chung nhiều khi không nhận thức hết được lợi ích hoặc tác hại của việc tiêu dùng một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó, ngay cả khi họ có đầy đủ thông tin. Chẳng hạn, ai cũng biết hút thuốc là có hại cho sức khỏe, nhưng rất nhiều người vẫn tiếp tục hút. Nhiều gia đình tham gia tiêm chủng sẽ giúp trẻ em phòng chống nhiều căn bệnh nguy hiểm nhưng họ vẫn không hướng dẫn con em mình thực hiện công việc này, bất kể việc tiêm chủng là miễn phí hay phải trả tiền.
Như vậy, sự can thiệp của Chính phủ trong trường hợp hàng hóa khuyến dụng bắt nguồn từ một chức năng gọi là chức năng "phụ quyền" của Chính phủ. Vai trò của Chính phủ ở đây giống như vai trò của người cha trong gia đình. Khi người cha thấy con cái mình chỉ hành động vì lợi ích trước mắt, mà không nghĩ đến tương lai lâu dài, thì người cha phải can thiệp để điều chỉnh hành vi của con cái. Sự can thiệp này có thể chỉ ở mức độ giáo dục, giải thích thuyết phục, nhưng nếu cần thì có thể biến thành mệnh lệnh bắt buộc.
1.1.3. Nhà nước can thiệp nhằm hướng hoạt động KTXH của đất nước theo những mục tiêu mà Chính phủ cần đạt tới
Nếu hai lý do trên liên quan đến những khuyết tật của thị trường trong vấn đề phân bổ nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu ngay trước mắt thì lý do thứ ba này lại đề cập đến một hạn chế khác của thị trường, đó là sự thiển cận không có tầm nhìn xa chiến lược cho các vấn đề dài hạn. Nguyên nhân của nó là vì thị trường tự do được hình thành từ sự tương tác giữa vô số người mua và người bán trên thị trường. Những người này đều chỉ có động cơ tối đa hoá lợi ích ngắn hạn của mình, còn họ không có động lực và phương tiện để chăm lo cho những lợi ích dài hạn của cả cộng đồng. Do đó, Chính phủ, với tư cách là người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng dân cư, phải hướng nền kinh tế phát triển theo định hướng chiến lược dài hạn mà Chính phủ cho rằng có lợi cho cả xã hội nói chung.
Với tư cách là một tổ chức ra đời nhằm thực thi những quyền hành nhất định đối với xã hội, chính phủ thường đặt ra những mục tiêu mà xã hội cần đạt tới trong một thời gian nhất định hay một số lĩnh vực cụ thể, ví dụ như: Chính phủ muốn hướng trình độ dân trí của đất nước sẽ đạt được ở một mức độ nào đó trong một khoảng thời gian nhất định, muốn thể lực tầm vóc của người dân phải tăng lên một mức độ tương xứng so với thế giới, hay muốn kìm hãm tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên ở một tỉ lệ thấp v.v... Để đạt được những ý muốn của mình, Chính phủ phải can thiệp trực tiếp vào các lĩnh vực đó bằng việc hoạch định những mục tiêu cụ thể thông qua các chiến lựơc, KH, chương trình phát triển như: chương trình cải cách giáo dục, chiến lược phát triển giáo dục, chương trình chăm sóc sức khỏe, chương trình kế hoạch hóa gia đình v.v... Cùng với việc đưa ra các chương trình, Chính phủ sử dụng nguồn lực, khả năng tài chính của mình để tổ chức thực hiện mục tiêu.
Một khía cạnh khác liên quan đến vấn đề sứ mệnh và an ninh quốc gia. Chính phủ không cho phép thị trường trực tiếp can thiệp vào một số lĩnh vực như: an ninh quốc phòng, bí mật quốc gia hay quan hệ quốc tế. Để thực hiện mục tiêu về các vấn đề này, chính phủ tổ chức lực lượng an ninh nhân dân, quân đội nhân dân, những doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp quốc phòng và một lượng tài chính nhà nước đủ lớn để thực hiện việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu cho các lĩnh vực đó.
Như vậy, việc tăng cường sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế không chỉ xuất phát từ những khuyết tật vốn có của thị trường mà nó còn mang một ý nghĩa cao hơn nhằm hướng xã hội tới một đời sống tốt đẹp hơn mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không làm được.
Những công cụ thực hiện sự can thiệp
Để thực hiện được các chức năng nói trên, Chính phủ thường sử dụng nhiều công cụ khác nhau:
1.2.1. Hệ thống pháp luật và những quy định dưới luật
Chính phủ xây dựng và thực hiện đúng đắn, đồng bộ hệ thống pháp luật và những văn bản dưới luật để tiến tới quản lý bằng pháp luật. Việc sử dụng công cụ pháp luật, giúp Chính phủ quản lý, điều tiết hành vi kinh doanh của các doanh nhân, điều tiết được hoạt động kinh tế thị trường. Việc thiếu luật hoặc luật thiếu đồng bộ, không phù hợp sẽ làm tổn thương đến nền kinh tế và xã hội trở nên rối rắm hơn. Vì vậy, phải xây dựng và thực hiện đúng đắn, đồng bộ hệ thống pháp luật và các quy định dưới luật như Pháp lệnh, Nghị định. Theo đó, mọi công dân có quyền tự do, chủ động sáng tạo trong giới hạn cho phép của pháp luật.
1.2.2. Hoạch định phát triển
Các công cụ hoạch định phát triển bao gồm: Chiến lược, quy hoạch, KH, chương trình phát triển KTXH trực tiếp giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn định vĩ mô và định hướng tương lai trong điều kiện kinh tế thị trường. Chính phủ, thông qua công cụ hoạch định, sẽ đánh giá được tình hình kinh tế hiện tại và mức độ, khả năng giải quyết các vấn đề KTXH tại một thời điểm nhất định; xây dựng các mục tiêu chiến lược định hướng sự phát triển KTXH của các nước, từng vùng, từng ngành trong tương lai; liên kết mục tiêu đặt ra với với cơ cấu nguồn lực, thực hiện các ưu tiên đầu tư cần thiết để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu; liên kết các ngành, vùng kinh tế thành một tổng thể thống nhất theo các chương trình phát triển KTXH của quốc gia và các cấp khác; gắn các chính sách vào cơ chế giải quyết các nhiệm vụ chiến lược đặt ra; cung cấp các thông tin và tình hình thị trường trong và ngoài nước cho các nhà kinh doanh.
1.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô
Để thực hiện được các chức năng của mình, chính phủ thường sử dụng một hệ thống chính sách, bao gồm hai loại:
Chính sách định hướng phát triển. Các chính sách này có chức năng định hướng, hướng dẫn các hoạt động KTXH, chỉ ra cách thức vận động của nền kinh tế để hướng tới các mục tiêu phát triển đặt ra. Hệ thống chính sách định hướng phát triển bao gồm: chính sách phát triển các ngành kinh tế: nông nghiệp, công nghiêp, dịch vụ; chính sách phát triển các vùng kinh tế; chính sách phát triển các lĩnh vực KTXH như: dân số - lao động và giải quyết việc làm, khoa học công nghệ, đất đai, chính sách đầu tư, chính sácch mở cửa, hội nhập v.v...
Chính sách điều tiết vĩ mô, bao gồm chính sách tài khoá, tiền tệ. Chính phủ thông qua các công cụ chủ yếu của chính sách tài khoá như: thuế, chi tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất, tỷ giá, quy định tỷ tệ dự trữ bắt buộc trong các ngân hàng, lãi suất chiết khấu v.v... nhằm điều tiết nền kinh tế theo hướng thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các chính sách điều tiết còn nhằm tập trung vào thực hiện tốt quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các đơn vị kinh tế và các thành viên trong xã hội, cũng như bảo đảm phúc lợi xã hội cho con người.
1.2.4. Lực lượng kinh tế nhà nước
Hiểu theo nghĩa chung nhất, kinh tế nhà nước bao gồm tổng thể các nguồn lực do Nhà nước sở hữu đã, đang và chưa huy động vào sử dụng. Hệ thống kinh tế Nhà nước được chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp; các ngân hàng thương mại nhà nước; công ty bảo hiểm nhà nước. Nhóm thứ hai là hệ thống phi doanh nghiệp nhà nước, bao gồm NSNN; Ngân hàng nhà nước; Kho Bạc nhà nước, các Quỹ dự trữ quốc gia; hệ thống tài nguyên, khoáng sản và đất đai; các dịch vụ công cộng do nhà nước đảm nhận.
Việc can thiệp của nhà nước vào quá trình kinh tế đưa kinh tế nhà nước trở thành khu vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trở thành một chủ thể kinh tế lớn giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn định, công bằng và hiệu quả. Cụ thể:
Một là, với tư cách là chủ thể kinh tế có tiềm năng mạnh, Chính phủ đã tham gia vào vòng luân chuyển kinh tế, sử dụng lực lượng tài chính tiền tệ nhà nước như một công cụ mạnh mẽ trong việc phân phối các nguồn lực, hướng nền kinh tế theo các mục tiêu vĩ mô đã định.
Hai là, các lực lượng dự trữ quốc gia thể hiện cả bằng hiện vật và giá trị là công cụ giúp Chính phủ ổn định thị trường, cân bằng cung - cầu; bảo đảm ổn định kinh tế, công bằng xã hội, an ninh quốc gia; thực hiện các định hướng phát triển.
Cuối cùng, hệ thống doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng: cung cấp hàng hoá dịch vụ, giải quyết việc làm, thu nhập, kích thích tiêu dùng, chống đỡ khủng hoảng kinh tế. Với tư cách là công cụ để nhà nước điều tiết các hoạt động của nền kinh tế quốc dân, thông qua đó hướng dẫn các khu vực kinh tế khác phát triển, các doanh nghiệp nhà nước còn có tác dụng thúc đẩy và tạo môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển, tham gia vào chống độc quyền tự nhiên, tối đa hoá phúc lợi xã hội.
Ở các cấp địa phương tỉnh, huyện, chính quyền địa phương cũng áp dụng được các công cụ trên, nhưng được cụ thể hoá theo chức năng nhiệm vụ đã được phân cấp trên địa bàn địa phương. Ví dụ, tỉnh cũng có thể đề ra cơ chế, chính sách trong phạm vi quyền hạn của mình như chính sách ưu đãi đầu tư, thu hút nhân tài… Tỉnh cũng sử dụng hệ thống KHH từ KH lãnh thổ (tỉnh, huyện, xã…) đến KH các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, thương mại dịch vụ, giáo dục, y tế…) để điều hành nền kinh tế trên địa bàn. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách của địa phương đưa ra không được vượt khung do Chính phủ trung ương đã qui định.
Như vậy, hệ thống kế hoạch phát triển (KHPT) là một công cụ quản lý của chính phủ để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Do đó, bất cứ khi nào còn chính phủ thì chính phủ còn sử dụng công cụ quản lý này. Đặc trưng của nhóm công cụ này khác với các nhóm khác là ở chỗ đây là phương pháp quản lý nền kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia, một vùng, một ngành hay một địa phương, và những giải pháp chính sách cần thiết để đạt mục tiêu với hiệu quả và hiệu lực cao nhất. Có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về KHH phát triển KTXH như sau:
KHH phát triển KTXH là một hoạt động có ý thức của nhà nước trên cơ sở đánh giá thực lực của nền kinh tế và nhận thức được sự vận động của các qui luật khách quan để vạch ra hướng phát triển cho nền kinh tế quốc dân trong từng giai đoạn nhất định cũng như những giải pháp lớn nhằm thực hiện được định hướng đó một cách có hiệu quả.
KH là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên
Chúng ta luôn nằm trong tình trạng khan hiếm nguồn lực, nhất là: vốn, lao dộng có tay nghề và công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nếu cứ để thị trường điều tiết, các nguồn lực này sẽ hướng vào việc sản xuất các hàng hoá nhiều lợi nhuận và mang tính trước mắt, ngắn hạn, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của những người giầu trong xã hội, đó là những hàng hoá xa xỉ. Các nguồn lực không thể huy động được vào những vùng sâu, vùng xa hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội cần có. Vì vậy, nếu các nguồn lực khan hiếm được phân bổ theo KH, nó sẽ bảo đảm hướng được vào các vấn đề mang tính bức xúc mà xã hội cần có, hướng vào người nghèo và những tầng lớp yếu thế trong xã hội; các nguồn lực khan hiếm được phân bổ phù hợp với nhu cầu trong dài hạn của đất nước và địa phương.
KH là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của mình và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia hoặc của một địa phương dưới dạng một KHPT cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ hay tâm lý đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc tập hợp dân chúng đằng sau chính phủ trong một chiến lược quốc gia để xoá bỏ nghèo đói. Bằng việc huy động sự ủng hộ của quần chúng và đi sâu vào các tầng lớp xã hội, các đảng phái, tôn giáo để yêu cầu mọi công dân đều cùng nhau là việc để xây dựng đất nước. Nhà nước (các cấp) khi có một KH kinh tế được coi là được trang bị tốt nhất để đảm bảo những động lực cần thiết để vượt qua những lực cản và thường hay chia rẽ của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống trong một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi người.
KH là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài
Nếu chúng ta có những KHPT cụ thể với những mục tiêu đặt ra cụ thể và những dự án được thiết kế cẩn thận, đó thường là một điều kiện cần thiết để nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong một chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỷ mỷ và cụ thể trong khuôn khổ một KHPT toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các địa phương về việc tìm kiến nguồn vốn từ bên ngoài càng nhiều bấy nhiêu. Thực tế qua Hội nghị các nhà tài trợ vừa qua đã cho thấy, nhờ Chính phủ Việt Nam đã có một lộ trình rõ ràng và thể hiện rõ quyết tâm trong cải cách bộ máy hành chính nên Việt Nam đã nhận được sự cam kết tài trợ lớn nhất từ trước đến nay từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc