Kinh tế là nền tảng cho sự ổn định chính trị và con đường phát triển của đất nước. Một nền kinh tế vững chắc và phát triển lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy để đất nước đi lên. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề phát triển kinh tế đang được đặt ra đối với toàn Đảng toàn dân. Sự phát triển của nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng.
15 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 10684 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH (từ 1975 đến nay), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Kinh tế là nền tảng cho sự ổn định chính trị và con đường phát triển của đất nước. Một nền kinh tế vững chắc và phát triển lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy để đất nước đi lên. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề phát triển kinh tế đang được đặt ra đối với toàn Đảng toàn dân. Sự phát triển của nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Trải qua một thời gian kiên trì với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), Đảng và Nhà nước ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm đối với sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển của kinh tế nói riêng. Từ khi đất nước giành được độc lập dân tộc, nền kinh tế nước ta đã trải qua các thời kỳ khác nhau:
- Từ 1945 đến 1954: nền kinh tế thời chiến
- Từ 1954 đến 1975: xây dựng CNXH ở miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho miền Nam chống Mỹ cứu nước.
- 1975 đến nay: Tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh và thực hiện bước quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước, trong đó có một thời gian dài đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế do nền kinh tế mang tính chất bao cấp, quan liêu.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã định hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng đã đi đến xây dựng phương hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trải qua những bước thăng trầm, cho đến nay, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển và hằng năm đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh và giàu đẹp. Tuy nhiên, những thách thức đối với kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại, bởi thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ đấu tranh gay go, phức tạp giữa một bên là giai cấp công nhân liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao động khác (chủ yếu là nông dân và trí thức) với một bên là các giai cấp bóc lột và tàn dư thế lực phản động chưa bị đánh đổ hoàn toàn.
Với những lí do trên đây, tôi quyết định lựa chọn đề tài tiểu luận “Đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH (từ 1975 đến nay)”.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
Ở VIỆT NAM
I. Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của CN Mác – Lênin
Theo Mác và Ăngghen, hình thái kinh tế xã hội cộng sản phát triển từ thấp đến cao theo 2 giai đoạn, từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa (làm theo năng lực, hưởng theo lao động) lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu). Thời kỳ quá độ chính là bước đầu tiên, nằm trong giai đoạn thấp CNXH, tức là thời kỳ chuyển đổi giữa CNTB và CNXH, xây dựng tiền đề cho CNXH. CNTB và CNXH khác nhau căn bản, thể hiện ở chỗ: CNTB là chế độ áp bức bóc lột, tồn tại dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong xã hội các giai cấp có mâu thuẫn đối kháng; còn CNXH là chế độ đã xóa bỏ áp bức bóc lột, là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và các giai cấp trong xã hội không có sự đối kháng. Vì thế, một thời kỳ chuyển dần từ CNTB sang CNXH là cần thiết. Thời gian cho bước quá độ ấy không có giới hạn, mà theo như Lênin đã nói “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài” hay Lênin ví nó như “những cơn đau đẻ kéo dài” bởi tính chất phức tạp và đấu tranh gay go của nó. Bước quá độ phải tuỳ thuộc vào xuất phát điểm, trình độ phát triển của mỗi đất nước, và sự vững mạnh về tư tưởng và quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân ở nước đó.
Khi phân tích đặc điểm và tính chất của CNTB, Mác và Ăngghen có nêu ra khả năng quá độ lên CNCS ở các nước lạc hậu tiền CNTB. Sau này, Lênin đã có sự kế thừa luận điểm này của Mác và Ăngghen, đồng thời đi sâu phân tích để chỉ rõ khả năng quá độ bỏ qua CNTB. Việc đi lên CNXH diễn ra trong phạm vi từng nước riêng lẻ hoặc một số nước, không thể diễn ra cùng lúc trên toàn thế giới. Khi CNXH đã thắng lợi ở một nước thì điều này sẽ làm tiền đề để các nước khác quá độ lên CNXH, kể cả các nước lạc hậu, bởi lúc này, thời đại quá độ lên CNXH trên toàn thế giới đã được mở ra. Tuy nhiên, việc quá độ lên CNXH ở các nước lạc hậu còn đòi hỏi một số điều kiện nhất định :
- Những nước lạc hậu phải có Đảng Cộng sản cầm quyền, sử dụng khối liên minh công – nông – trí thức để xây dựng nhà nước XHCN.
Giai cấp công nhân ở các nước đó phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.
CNTB lỗi thời về mặt lịch sử, CNXH là chế độ mới tiến bộ hơn, ưu việt hơn để thay thế.
Mặt khác, các nước lạc hậu quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN qua con đường quá độ gián tiếp, tức là thực hiện nhiều bước quá độ nhỏ, phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị của nước đó.
Trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo chính quyền. Tuy nhiên, các thế lực phản động và tàn dư của xã hội cũ vẫn chưa bị đánh gục hoàn toàn và luôn có âm mưu lật đổ, chống phá giai cấp công nhân. Vì thế trong thời kỳ này, các mâu thuẫn tồn tại một cách khá rõ nét. Đặc điểm cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là những yếu tố của xã hội cũ và xã hội mới song song tồn tại và đan xen với nhau, đồng thời chúng có sự đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống : từ kinh tế (tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó các thành phần vừa mang tính chất thống nhất, vừa mang tính đối kháng nhau), đến xã hội (nhiều giai cấp, tầng lớp cùng tồn tại, họ vừa đấu tranh vừa liên minh với nhau), văn hoá - hệ tư tưởng (hệ tư tưởng thống trị của giai cấp công nhân cùng tồn tại với các hệ tư tưởng khác)… Vì thế, giai cấp công nhân cần phải có hệ tư tưởng vững chắc, nếu không rất dễ bị thất bại trong cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài để xây dựng một tiền đề vững chắc cho việc đi lên CNXH.
II. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc và trong cả nước vào năm 1975. Đặc thù trong bước quá độ của Việt Nam là từ một nước phong kiến lạc hậu, với nền sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào nông nghiệp bỏ qua chế độ CNTB để tiến thẳng lên CNXH. Đó không phải là một sự lựa chọn mang tính tự phát hay rập khuôn so với các nước XHCN khác mà nó phải dựa vào cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, cả về những yếu tố khách quan và chủ quan.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan và bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua. Như vậy, việc đi lên CNXH của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy luật của lịch sử, mặc dù xuất phát điểm của Việt Nam lại là từ một nước lạc hậu. Đó là bước phát triển đi từ hình thái kinh tế xã hội thấp đến hính thái kinh tế xã hội cao hơn, ưu việt hơn, bởi thực tế đã chứng minh rằng, hình thái kinh tế xã hội phong kiến đã không còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mà cụ thể ở đây là giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo nhân dân Việt Nam. Mặt khác, giai cấp công nhân Việt Nam mà đại diện là Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng một cách hợp lý và nhuần nhuyễn lí luận về cách mạng không ngừng của Mác và Ăngghen. Từ năm 1975, sau khi nước nhà đã độc lập và hoàn toàn thống nhất, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã giành thắng lợi trên phạm vi cả nước, toàn Đảng toàn dân ta lại tiếp tục tiến hành cách mạng XHCN, quá độ lên CNXH. Cho đến nay, Việt Nam vẫn kiên trì với con đường đi lên CNXH và coi đây là con đường đúng đắn duy nhất đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Thêm vào đó, việc quá độ lên CNXH không qua CNTB vẫn có thể thực hiện được. Mác, Ăngghen và sau này là Lênin đều khẳng định luận điểm này. Trên thực tế, Việt Nam có đầy đủ những điều kiện cả về bên trong lẫn bên ngoài để từ một nước tiền TBCN tiến thẳng lên CNXH :
- Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, với đại diện là Đảng Cộng sản Việt Nam, có hệ tư tưởng vững chắc. Khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng vững mạnh và được củng cố hơn nữa.
Trải qua một thời gian dài đấu tranh vì độc lập dân tộc, Đảng ta đã đúc rút nhiều bài học quý báu, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm và tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước CNXH trên thế giới. Đảng từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và CNXH.
CNTB đã tỏ rõ sự lỗi thời về mặt lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của CNTB ngày nay không đồng nghĩa với sự thay đổi bản chất, tức là CNTB vẫn là một chế độ bóc lột, mâu thuẫn trong lòng CNTB ngày càng lớn (giữa tính chất xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân TBCN) mặc dù hình thức bóc lột ngày càng được cải tiến và tinh vi hơn gấp nhiều lần. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ bị kìm hãm bởi quan hệ sản xuất lỗi thời, ít mang tính chất xã hội hoá, như vậy sẽ nảy sinh nhu cầu thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Đó là một nhân tố góp phần khẳng định cho sự ra đời của CNXH.
Hiện nay, CNXH lâm vào tình trạng khủng hoảng, bằng chứng là Liên Xô tan rã và hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu cũng sụp đổ. Nhưng đó là do sự sai lầm trong việc áp dụng mô hình CNXH chứ không phải khủng hoảng trong bản chất của chế độ CNXH. Bản thân CNXH là một chế độ tiến bộ và tương lai của loài người. Như vậy, bước quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và là một tất yếu của lịch sử.
CHƯƠNG II: NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH (TỪ 1975 ĐẾN NAY)
Như chúng ta đã biết, thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam được thực hiện trong cả nước từ năm 1975. Để chúng ta có thể nhìn nhận tổng thể và toàn diện về đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ, tôi lấy thời gian từ năm 1975 cho đến nay.
Từ năm 1975 đến nay, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ của Việt Nam đã trải qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (từ 1975 đến 1986): nền kinh tế chỉ huy mang tính chất tập trung quan liêu, bao cấp.
- Giai đoạn 2 (từ 1986 đến nay): nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (gọi tắt là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN).
I. Giai đoạn 1 (từ 1975 đến 1986)
Trong giai đoạn này, cơ cấu quản lý kinh tế của nước ta là tập trung bao cấp; theo đó, nền kinh tế tồn tại là nền kinh tế mệnh lệnh, chỉ huy. Đảng và Nhà nước chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế : thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động.
Nền kinh tế của một nước phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Sự phát triển của nền kinh tế cũng phản ánh sự phù hợp của hai yếu tố trên. Ở nước ta giai đoạn này, trong khi lực lượng sản xuất còn mang tính chất phát triển không đồng đều, sản xuất nhỏ thủ công là phổ biến, trình độ phân công lao động và xã hội hoá rất thấp thì chúng ta lại xây dựng nền kinh tế mệnh lệnh, chỉ huy làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, không khai thác được năng lực sản xuất xã hội. Nhà nước chỉ ưu tiên, chú trọng bảo hộ cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, coi hai thành phần kinh tế trên là kinh tế XHCN, còn các thành phần kinh tế khác bị coi là mầm mống của CNTB nên bị xoá bỏ hoàn toàn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976, Đảng ta đã xác định đường lối kinh tế dựa trên đường lối phát triển chung của đất nước, trong đó có một vài điểm đáng lưu ý sau: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng vật chất kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ…” . Tuy nhiên, việc xác định mục tiêu chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ của Đảng là chưa rõ ràng, hơn nữa, Đảng đã phạm sai lầm trong việc xác định bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về cải tạo XHCN, về việc áp dụng cơ cấu quản lý kinh tế… Trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém, công nghệ lạc hậu, nước ta còn dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, Đảng lại chủ trương phát triển công nghiệp nặng. Điều này không phù hợp với tình hình thực tiễn. Chúng ta đã quá nóng vội trong những bước quá độ. Nước ta có xuất phát điểm là một nước tiền TBCN tiến lên CNXH, vì thế trình độ phát triển của lực lượng sản xuất rất thấp, cần phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ. Nhưng chúng ta lại thực hiện ngay những đường lối phát triển như một nước có nền kinh tế phát triển cao. Điều này là không đúng với quy luật phát triển của lịch sử.
Nói chung trong thời kỳ này, do ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, chúng ta đã sao chép rập khuôn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ cấu quản lý kinh tế của các nước XHCN. Có thể nói, nền kinh tế mệnh lệnh – chỉ huy mang tính chất tập trung, quan liêu, bao cấp là phù hợp với hoàn cảnh có chiến tranh; bởi lúc đó mục tiêu chung và lớn nhất của cả nước là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng đất nước để tiếp tục tiến hành cách mạng XHCN. Vì thế, việc tập trung sức người sức của cho cuộc chiến tranh chính nghĩa là hết sức cần thiết. Điều đó tạo nên sức mạnh to lớn của toàn dân, nhanh chóng hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới cách mạng XHCN. Tuy nhiên, khi đất nước đã giành thống nhất, thời kỳ quá độ được thực hiện trong phạm vi cả nước, nền kinh tế tập trung bao cấp này không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Nó làm nảy sinh tình trạng quan liêu hoá, và điều này đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ sự phát triển kinh tế và xã hội. Kinh tế phát triển thụ động và thiếu linh hoạt, các nguồn lực không được khai thác triệt để, sản xuất kém hiệu quả do cách làm việc cứng nhắc… Và hậu quả tất yếu là năm 1979 và năm 1985-1986, nền kinh tế – xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng : tình trạng lạm phát trầm trọng (cao nhất là năm 1985 với tỉ lệ lạm phát là 600%), sản xuất trì trệ, hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống của người lao động rất khó khăn… Điều này đã tạo áp lực lớn đối với sự phát triển của đất nước. Do đó, sự nghiệp đổi mới được bắt đầu ngay từ áp lực này.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991), Đảng đã chỉ ra nguyên nhân của những sai lầm trong giai đoạn này: “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có mức đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương…”. Đó là bài học tổng kết những thời kỳ lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển của đất nước nói chung và nền kinh tế nói riêng. Do điều kiện lịch sử, nhận thức bước đầu của Đảng về con đường đi lên CNXH ở nước ta còn chưa đúng đắn. Mặc dù vậy, điều này cũng tạo điều kiện để Đảng từng bước bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh, làm cho con đường đó ngày càng rõ hơn trong những giai đoạn sau.
II. Giai đoạn 2 (từ 1986 đến nay)
Đứng trước những khó khăn của thực trạng nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta nhận thấy rằng để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân thì việc đầu tiên là phải đổi mới tư duy và nhận thức trong công cuộc xây dựng CNXH. Chúng ta thực sự có chính sách đổi mới từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986). Đổi mới nhận thức về quản lý kinh tế là một vấn đề then chốt trong nội dung của chính sách đổi mới. Trong mười nhiệm vụ mà Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành công trong Báo cáo chính trị thì có 5 nhiệm vụ liên quan đến đổi mới kinh tế:
Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Thực hiện nhiệm vụ cải tạo XHCN một cách thường xuyên với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, thúc đẩy sự phát triển của LLSX
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động…
Tiếp đó, bên cạnh việc tổng kết thực tiễn, bài học kinh nghiệm sau một thời gian quá độ lên CNXH, Đại hội Đảng lần thứ VII của Đảng đã cụ thể hoá đường lối phát triển, đề ra những phương hướng rõ ràng đối với đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định : “Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản, … Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoạt chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta.”. Đồng thời, phương hướng cơ bản về xây dựng nền kinh tế ở nước ta được xác định là : “…Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tàng của nền kinh tế quốc dân…”. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở nước ta không phải là nền kinh tế thị trường như các nước TBCN khác, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường XHCN, bởi nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vẫn còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nền kinh tế thị trường bao giờ cũng gắn liền với một hình thái kinh tế – xã hội, không tách khỏi chế độ chính trị – xã hội của một nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là sự phát triển kinh tế mang tính đặc thù của Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế khiến nền kinh tế phát triển theo nhiều hướng khác nhau, và tạo thành hai khuynh hướng cơ bản trái ngược nhau: Khuynh hướng TBCN và khuynh hướng XHCN. Vì thế, sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cần có định hướng XHCN của Đảng, có sự quản lý của Nhà nước để tránh lệch hướng và hạn chế những mặt trái tiêu cực của kinh tế thị trường.
Như vậy, đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là bỏ qua chế độ TBCN, từ nước phong kiến lạc hậu tiến thẳng lên CNXH. Việc xác định được vấn đề “bỏ qua chế độ TBCN” chứ không phải “bỏ qua giai đoạn TBCN” là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta. Hiểu theo “bỏ qua giai đoạn TBCN” nghĩa là phủ định siêu hình, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNTB, không có sự kế thừa những tiến bộ mà CNTB đã tạo ra, vì thế với nhận thức đó, nền kinh tế không được phép có sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản. Đó là một nhận thức sai lầm. Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu của CNTB, đặc biệt là trên lĩnh vực khoa học công nghệ kĩ thuật. Thực tế đã chứng minh hoạt động sản xuất và lao động của con người đều có bước tiến khi áp dụng những thành tựu trong khoa học kĩ thuật. Do đó, việc xác định “bỏ qua chế độ TBCN” thể hiện tư duy tiến bộ, sự đổi mới trong nhận thức. Đó chỉ là sự rút ngắn, quá độ lên CNXH mà không qua chế độ chính trị TBCN, tức là chúng ta vẫn kế thừa và phát huy thành quả của TBCN, áp dụng sáng tạo phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. V.I.Lênin đã khẳng định : “Chúng ta không hình dung một thứ CNXH nào khác hơn là CNXH dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của CNTB đã thu được”.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có 6 thành phần. Cụ thể là:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Các thành phần kinh tế này đều có quan trọng trong nền kinh tế của nước ta, trong đó kinh tế nhà nuớc và kinh tế tập thể đóng vai trò chủ đạo và là nền tảng của kinh tế XHCN. Các thành phần kinh tế này đan xen với nhau, tác động qua lại với nhau, vì thế chúng vừa có tính thống nhất, lại vừa có tính mâu thuẫn. Tính thống nhất thể hiện ra ở chỗ các thành phần này đều thuộc nền kinh tế Việt Nam, vì thế chúng có mối liên hệ khăng khít với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Còn tính mâu thuẫn biểu hiện ở xu hướng vận động khác nhau giữa các thành phần kinh tế, do chúng có bản chất kinh tế khác nhau. Mặt khác, bản thân trong mỗi thành phần kinh tế cũng có mâu thuẫn (tranh giành thị trường, vi phạm sở hữu trí tuệ…), tuy nhiên, mâu thuẫn này không gay gắt và kh