Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các giao dịch kinh tế và phi kinh tế giữa các quốc gia và lãnh thổ ngày càng phát triển. Theo đó, các giao dịch tiền tệ quốc tế cũng sôi động và không ngừng phát triển.
Mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền ấy tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Các chức năng của đồng tiền quốc gia như phương tiện trao đổi, thanh toán, cất trữ chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia đó. Ra khỏi lãnh thổ quốc gia, đồng bản tệ phải thích nghi với những quy định và thông lệ quốc tế mới có tác dụng trao đổi.
Để bảo vệ chủ quyền quốc gia và bảo vệ giá trị đồng tiền của mình trong giao lưu quốc tế, ngay từ những năm đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước Việt Nam đã ban hành chính sách quản lý ngoại hối phù hợp với đường lối phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cách mạng.
Từ tháng 9-1945 đến tháng 4-1946, chính phủ ta đã có biện pháp kiên quyết nhưng mềm dẻo chống lại tỷ giá kiểu "ăn cướp" của đồng Quan kim, Quốc tệ do quân đội Tưởng Giới Thạch đem vào miền Băc Việt Nam trong lúc phía đồng minh uỷ quyền họ vào giải giáp quân đội Nhật.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ta đã có biện pháp đấu tranh tỷ giá, đấu tranh trận địa với tiền địch. Cuối cùng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta đã quét sạch tiền Đông Dương ở những vùng mới giải phóng, thống nhất lưu hành giấy bạc Ngân hàng Việt Nam trên một nửa đất nước.
Sau khi miền Bắc được giải phóng Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã đặt quan hệ vay nợ, nhận viện trợ và quan hệ thanh toán với các nước XHCN rồi mở rộng quan hệ ngoại hối với nhiều nước khác trên thế giới.
Trong những năm đánh Mỹ, đánh nguỵ (1965-1975), ta đã có nhiều biện pháp "chế biến" các loại ngoại tệ do quốc tế viện trợ để chi viện cho Chính phủ cách mạng lâm thời. Cộng hoà miền Nam Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. Sau đại thắng mùa xuân năm 1974 ta đã quét sạch tiền nguỵ, cho lưu hành một đồng tiền thống nhất trong cả nước. Trong giai đoạn lịch sử ấy có công lao đóng góp của ngành ngân hàng nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng.
Ngành ngân hàng cùng với sự đổi mới chung của toàn đất nước, đã có những bước tiến đáng kể trong tổ chức và hoạt động, ngày càng thể hiện rõ vai trò đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế. Là người đại diện cho Nhà nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những chính sách điều hành và quản lý các công cụ chính sách tiền tệ có hiệu quả. Đặc biệt là chính sách quản lý dự trữ ngoại hối.
Bản tiểu luận với nhan đề "Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị" chỉ xin trình bầy giới hạn công tác quản lý ngoại hối trong thời gian từ năm 2001 trở lại đây.
Với kiến thức còn nhiều hạn chế và kinh nghiệm thực tế còn nhiều thiếu sót, em mong thầy cô, các bạn quan tâm đóng góp, giúp đỡ để em hoàn thiện hơn những kiến thức này và có sự hiểu biết sâu rộng hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn đã giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình để em hoàn thành bài tiểu luận này.
23 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các giao dịch kinh tế và phi kinh tế giữa các quốc gia và lãnh thổ ngày càng phát triển. Theo đó, các giao dịch tiền tệ quốc tế cũng sôi động và không ngừng phát triển.
Mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền ấy tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Các chức năng của đồng tiền quốc gia như phương tiện trao đổi, thanh toán, cất trữ… chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia đó. Ra khỏi lãnh thổ quốc gia, đồng bản tệ phải thích nghi với những quy định và thông lệ quốc tế mới có tác dụng trao đổi.
Để bảo vệ chủ quyền quốc gia và bảo vệ giá trị đồng tiền của mình trong giao lưu quốc tế, ngay từ những năm đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước Việt Nam đã ban hành chính sách quản lý ngoại hối phù hợp với đường lối phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cách mạng.
Từ tháng 9-1945 đến tháng 4-1946, chính phủ ta đã có biện pháp kiên quyết nhưng mềm dẻo chống lại tỷ giá kiểu "ăn cướp" của đồng Quan kim, Quốc tệ do quân đội Tưởng Giới Thạch đem vào miền Băc Việt Nam trong lúc phía đồng minh uỷ quyền họ vào giải giáp quân đội Nhật.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ta đã có biện pháp đấu tranh tỷ giá, đấu tranh trận địa với tiền địch. Cuối cùng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta đã quét sạch tiền Đông Dương ở những vùng mới giải phóng, thống nhất lưu hành giấy bạc Ngân hàng Việt Nam trên một nửa đất nước.
Sau khi miền Bắc được giải phóng Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã đặt quan hệ vay nợ, nhận viện trợ và quan hệ thanh toán với các nước XHCN rồi mở rộng quan hệ ngoại hối với nhiều nước khác trên thế giới.
Trong những năm đánh Mỹ, đánh nguỵ (1965-1975), ta đã có nhiều biện pháp "chế biến" các loại ngoại tệ do quốc tế viện trợ để chi viện cho Chính phủ cách mạng lâm thời. Cộng hoà miền Nam Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. Sau đại thắng mùa xuân năm 1974 ta đã quét sạch tiền nguỵ, cho lưu hành một đồng tiền thống nhất trong cả nước. Trong giai đoạn lịch sử ấy có công lao đóng góp của ngành ngân hàng nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng.
Ngành ngân hàng cùng với sự đổi mới chung của toàn đất nước, đã có những bước tiến đáng kể trong tổ chức và hoạt động, ngày càng thể hiện rõ vai trò đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế. Là người đại diện cho Nhà nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những chính sách điều hành và quản lý các công cụ chính sách tiền tệ có hiệu quả. Đặc biệt là chính sách quản lý dự trữ ngoại hối.
Bản tiểu luận với nhan đề "Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị" chỉ xin trình bầy giới hạn công tác quản lý ngoại hối trong thời gian từ năm 2001 trở lại đây.
Với kiến thức còn nhiều hạn chế và kinh nghiệm thực tế còn nhiều thiếu sót, em mong thầy cô, các bạn quan tâm đóng góp, giúp đỡ để em hoàn thiện hơn những kiến thức này và có sự hiểu biết sâu rộng hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn đã giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình để em hoàn thành bài tiểu luận này.
Chương I
lý luận chung về nghiệp vụ quản lý ngoại hối
Khái niệm và vai trò của quản lý ngoại hối
1. Khái niệm
Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, ... giữa các quốc gia trên thế giới.
Ngoại hối là những ngoại tệ (tiền nước ngoài) vàng tiêu chuẩn quốc tế,các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.Trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò,nó là phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, để thanh toán và hạch toán quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng thì bất cứ một quốc gia nào cũng không thể tự mình khép kín mọi hoạt động, cũng không thể phát triển đất nước một cách đơn độc,riêng lẻ đặc biệt giai đoạn hiện nay,khi nền kinh tế thị trường đang ngày một sôi động,luôn đòi hỏi sự hợp tác,liên minh giữa các quốc gia. Do vậy việc dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa chiến lược quan trọng,có dự trữ ngoại hối cần thiết tức là nhà nước đã nắm được trong tay một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Về nguồn gốc sâu xa, dự trữ ngoại hối chính là kết quả, là biểu hiện của sức mạnh của tiềm lực kinh tế quốc gia.Dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng khả năng thanh toán quốc tế,thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phất triển kinh tế và đời sống trong nước,mở rộng hoạt động đầu tư,hợp tác kinh tế với các nước khác phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở.
Quỹ dự trữ ngoại hối bao gồm: Ngoại tệ mạnh,vàng và kim loại quý,dự trữ quỹ tiền tệ quốc tế IMF,quyền rút vốn đặc biệt SDR và các tài sản tài chính có tính linh hoạt cao...
2. Vai trò của quản lý dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối Nhà nước biểu hiện là tài sản nợ đối với nền kinh tế và là tài sản chung trên bảng cân đối tài sản của NHNN. ở đó NHNN được giao sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để tiến hành mua bán trên thị trường ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Dự trữ ngoại hối được sử dụng nhằm tài trợ cho sự mất cân bằng cán cân thanh toán,hoặc gián tiếp tác động thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối giữ vai trò ngăn ngừa những biến động trong nguồn thu xuất khẩu,thanh toán nhập khẩu,cũng như chu chuyển quá lớn luồng vốn đối với một quốc gia.
Có dự trữ ngoại hối là một cơ sở cho việc phát hành đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền - hàng trong nước.Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại hối như là một lực lượng để can thiệp,điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu,theo kế hoạch.
Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi,dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu,theo kế hoạch.
Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi,dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bán tệ.
Dự trữ ngoại hối có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nên được nhà nước tiến hành quản lý và NHNN là cơ quan được nhà nước giao cho thực hiện nhiệm vụ này.Điều đó thể hiện trong pháp lệnh NHNN năm 1990 (điều 30),luật NHNN năm 1997 (điều 38).
Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền,xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ,lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế, NHNN, đã tiến hành quản lý dự trữ ngoại hối,cụ thể là áp dụng các chính sách,biện pháp tác động vào quá trình thu nhập,xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định.
3. Mục đích quản lý ngoại hối
3.1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Như đã nói ở trên,NHNN trực tiếp điều hành và quản lý dự trữ ngoại hối nhằm mục đích ngăn ngừa ngắn hạn quá lớn về tỷ giá,do hậu quả của một số biến động trên thị trường. Vì vậy mục đích của việc quản lý dự trữ ngoại hối là để đảm bảo cho một quốc gia luôn luôn trong trạng thái có thể thanh toán các khoản nợ đúng hạn và có thể giải quyết những dao động về tỷ gia ngoại hối trong ngắn hạn.Đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết,nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền.
3.2.Bảo tồn dự trữ ngoại hối Nhà nước
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHNN phải quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn bảo đảm an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế .Vì thế NHNN cần phải mua, bán, chuyển đổi để phát triển, chống thất thoát,xói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ.
3.3.Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện thu-chi của một nước với nước ngoài.Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu,lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng cung ứng về ngoại tệ cao hơn nhu cầu. Ngựơc lại , khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng.
Vì thế,mục đích của quản lý dự trữ ngoại hối để đảm bảo cho một quốc gia luôn luôn trong trạng thái có thể thanh toán các khoản nợ đúng hạn và có thể giải quyết những giao động về tỷ giá ngoại hối trong ngắn hạn.
4. Cơ chế quản lý ngoại hối
4.1. Cơ chế tự do tỷ giá
Điều này có nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường,cân bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước,do vậy tỷ giá-giá cả ngoại hối phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường.Tỷ giá thả nổi dẫn đến lãi suất,luồng vốn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối.
4.2. Cơ chế quản lý tỷ giá
4 .2.1. Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn
Theo cơ chế này nhà nước độc quyền ngoại thương và độc quyền ngoại hối. Nhà nước thực hiện các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả hoạt động ngoại hối vào tay mình . Tỷ giá do nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được nhà nước cấp bù , ngược lại nếu lãi thì nộp cho nhà nước . Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế tập trung.
4.2.2 Cơ chế quản lý tỷ giá có điều tiết
Cơ chế quản lý hoàn toàn, nhà nước có thể áp đặt khống chế được thị trường , ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài , chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong . Tuy nhiên , trong nền kinh tế thị trường , cách quản lý này sẽ không phù hợp , cản trở và gây khó khăn cho nền kinh tế . Để khắc phục sự áp đặt ,nhà nước đã tiến hành điều tiết nhưng đã gắn với thị trường , nhà nước tiến hành kiểm soát một mức độ nhất định để nhằm phát huy tính tích cực của thị trường , hạn chế nhược điểm do thị trường gây ra , tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển và ổn định ,ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài.
5. Hoạt động ngoại hối của NHNN
5.1 Hoạt động mua bán ngoại hối
NHNN tham gia vào hoạt động mua , bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp , giám sát , điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua , bán cuối cùng .Thông qua việc mua bán, NHNN thực hiện giám sát và điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ,đồng thời theo dõi diễn biến tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với các NHNN các nước khác củng cố sức mua đồng tiền hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự trong quan hệ quốc tế có lợi cho nước mình.
5.1.1.Mua bán trên thị trường trong nước
NHNN tiến hành mua,bán với các ngân hàng thương mại tại hội sở trung ương của các ngân hàng thương mại mà không trực tiếp mua- bán với các công ty kinh doang xuất nhập khẩu.Tỷ giá hối đoái do NHNN công bố. ở đây NHNN sử dụng một phần dự trữ để bán cho các ngân hàng thương mại và mua ngoại tệ của các ngân hàng thương mại đưa vào dự trữ.Thông qua việc mua bán,NHNN thực hiện cung ứng tiền tệ hoặc rút bớt khỏi lưu thông,trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng tiền bản tệ.
Việc giao dịch,mua bán của NHNN với các ngân hàng thương mại trên thị trường hối đoái chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống điện thoại,telex hoặc hệ thống computer có nối mạng giữa NHNN với các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra NHNN cũng có thể hoạt động thông qua việc mua bán trực tiếp với khách hàng không phải là doang nghiệp như các cơ quan hành chính hoặc các tổ chức khác.
5.1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế
Với nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối NHNN thực hiện mua bán trên thị trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối.NHNN phải tính toán gửi ngoại hối ở nước nào có lợi mà vẫn đảm bảo an toàn,nghiên cứu lãi suất thực tế và xu hướng tăng lên của lãi suất ngoại tệ để kinh doanh có lãi.
Qua mua, bán ngoại hối có chênh lệch giá thì phần chênh lệch đó hình thành lợi nhuận của ngân hàng.
NHNN thực hiện việc mua bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền NHNN. Nghiệp vụ này ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối,ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Như vậy NHNN thông qua mua bán ngoại tệ có thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn.
5.2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN
NHNN thực hiện các hoạt động ngoại hối khác như:
- Quản lý, điều hành thị trường ngoại hối,thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,bằng cách đưa các quy chế gia nhập thành viên,quy chế hoạt động,quy định giới hạn tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường ....
- Tham gia xây dựng các dự án pháp luật và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật về quản lý ngoại hối. NHNN được giao nhiệm vụ ban hàng các thông tư hướng dẫn cụ thể để phục vụ cho việc quản lý của mình được thống nhất.
- Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Dựa vào luật pháp và điều kiện cụ thể trong từng thời gian, NHNN đưa ra các quy định cần thiết để cấp giấy phép cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối.
- Kiểm tra giám sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối của các tổ chức tín dụng.
- Biên lập cán cân thanh toán.
Chương II
Thực trạnh hoạt động quản lý ngoại hối những năm đầu thế kỷ 21.
Bước sang thế kỷ mới, quốc hội khoá X đã ra nghị quyết số 55/2001 xác định các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2001 - 2005, bao gồm:
- Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5%
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/ năm
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13,1%/ năm
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14- 15%/ năm
………….
Ngành ngân hàng, với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, nhằm phục vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. NHNN đã xây dựng các chỉ tiêu tiền tệ - tín dụng trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 như sau:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng phương tiện thanh toán 22%/năm
- Tốc độ tăng vốn huy động 20- 25%/năm
- Tốc độ tăng dư nợ cho vay nền kinh tế 22%/năm
Hoạt động quản lý ngoại hối là một mặt họat động rất quan trọng của ngành Ngân hàng. Nó góp phần đắc lực trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính sách tiền tệ, giữ ổn định giá trị đối nội, đối ngoại của đồng tiền Việt Nam. Thông qua công cụ lãi suất, công cụ tỉ giá…., nó thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào nước ta, khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu, góp phần làm thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế.
A. Những mặt tích cực trong hoạt động quản lý ngoại hối:
Trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối không ngừng được đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế và thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong nửa đẩu kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, công tác quản lý ngoại hối đã thu được những kết quả đáng khích lệ:
1. Về chính sách lãi suất ngoại tệ
Từ ngày 03/01/ 2001 đến ngày 25/6/2003, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã 13 lần hạ lãi suất chủ đạo từ 6,5% xuống 1%/năm. Lãi suất khu vực đồng euro giảm từ 2,5% xuống còn 2%/năm. Lãi suất Sibor cũng giảm. Lãi suất quốc tế giảm đã ảnh hưởng lớn đến việc điều hành chính sách lãi xuất trong nước.
Những tháng đầu năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ của các NHTM Việt Nam đối với cho vay ngắn hạn là dựa trên cơ sở lãi suất Sibor 3 tháng + 1%/năm; đối với cho vay trung dài hạn là lãi suất Sibor 6 tháng + 2,5%/năm.
Theo dõi diễn biến tình hình tiền tệ quốc tế, từ 01/06/2001, NHNN xoá bỏ cơ sở dựa vào lãi suất Sibor, cho phép các tổ chức tín dụng căn cứ vào lãi suất thị trường quốc tế và quan hệ cung cầu vốn ngoaị tệ trong nước để thoả thuận với khách vay ngoại tệ mức lãi suất cho vay. Xét về thực chất, động thái này là việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ - một bước ngoặt cơ bản của NHNN về chính sách lãi suất.
Năm 2002, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được điều chỉnh theo các mức: Không kỳ hạn: 1,2%/năm; 3 tháng: 1,4%/năm; 6 tháng : 1,6?%/năm; 12 tháng: 2,2%/năm (mức này xê dịch tuỳ theo từng ngân hàng). Lãi suất cho vay ngoại tệ ngắn hạn của các NHTM phổ biến ở mức 3,5 - 4,5%/năm; trung dài hạn ở mức 4,5%/năm.
Riêng đối với lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, NHNN vẫn tiếp tục khống chế ở mức thấp: không kỳ hạn 1%/năm, có kỳ hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm, trên 6 tháng 2%/năm, nhằm hạn chế việc găm giữ USD trên tài khoản.
Nói chung lãi suất ngoại tệ trong 2 năm 6 tháng vừa qua (từ 01/01/2001 - 30/6/2003) chịu ảnh hưởng của biến động lãi suất quốc tế và tỉ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) bằng ngoại tệ do NHNN quy định từng thời kỳ.
Do tác động của lãi suất, tốc độ tăng huy động vốn nói chung của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2002 đạt 19,4%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng 25,1% của năm 2001. Nguyên nhân do lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp dẫn đến tốc độ tăng huy động vốn ngoại tệ chỉ đạt 5,6% (2001 là 25,98%). Trong khi đó, lãi suất tiền gửi VND duy trì ở mức cao (loại kỳ hạn 12 tháng từ 0,62 - 0,67%/tháng, tương đương 8,04%/năm) khiến nhiều người giữ tiết kiệm bằng ngoại tệ đã chuyển sang VND. Kết quả là, năm 2002, vốn huy động bằng VND tăng 29,22%, cao hơn so với tốc độ tăng 24,4% năm 2001.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng (dư nợ) năm 2002 đạt 22,2%. Trong đó tín dụng bằng ngoại tệ tăng mạnh 25,13% so với mức tăng 12,7% của năm 2001. Tín dụng ngoại tệ tăng chủ yếu do lãi suất cho vay ngoại tệ thấp (do ảnh hưởng của lãi suất quốc tế ). Thậm chí có doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ không đưa vào sản xuất, kinh doanh mà lại bán ra thị trường tự do lấy VND gửi vào ngân hàng hưởng lãi suất cao (có thời điểm lãi suất tiền gửi VND cao gấp 3 - 4 lần lãi suất tiền gửi ngoại tệ)
2. Về chính sách tỉ giá
Biên độ tỉ giá được nới rộng từ ± 0,1% năm 2001 lên ± 0,25% năm 2002. Động thái này của NHNN đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ chức tín dụng kinh doanh mua bán ngoại tệ. Sự điều hành tỉ giá theo quy luật cung cầu ngoại tệ có tính đến khả năng cạnh tranh tỉ giá giữa các ngoại tệ mạnh (USD, euro, Yên…) đã phản ánh ngày càng toàn diện hơn mối quan hệ giữa VND với ngoại tệ các nước có quan hệ thương mại, vay nợ, đầu tư với Việt Nam. Qua đó, tỉ giá VND không đơn thuần gắn với USD như trước mà gắn với cả "một rổ tiền tệ" nên giữ được thế tương đối ổn định. Cụ thể là, năm 2001 tỉ giá USD/VND tăng 3,8%, năm 2002 tăng 2,1%, 6 tháng đầu năm 2003 chỉ tăng 2,6%.
3. Về công cụ dự trữ bắt buộc
Năm 2000 và những tháng đầu năm 2001, lãi suất tiền gửi ngoại tệ còn cao, vốn ngoại tệ chảy vào ngân hàng nhiều. Để ngăn chặn tình trạng đô la hoá tài sản nợ của các tổ chức tín dụng, từ tháng 5/2001, NHNN đã nâng tỉ lệ DTBB ngoại tệ từ 12% lên 15%. Do tri phí đầu vào cao, xu hướng tăng trưởng vốn huy động ngoại tệ giảm dần. Đến tháng 10/2001, do ảnh hưởng của lãi suất quốc tế, lãi suất ngoại tệ trong nước giảm mạnh, gây khó khăn cho tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng, NHNN đã điều chỉnh tỉ lệ DTBB từ 15% xuống 10%, sang 2002 xuống còn 8% và có chiều hướng còn tiếp tục giảm để phù hợp với chính sách nới lỏng tín dụng.
4. Về chính sách kết hối
3 năm trở lại đây, trong điều kiện cung cầu ngoại tệ không còn căng thẳng, tỉ giá USD/VND tương đối ổn định, Chính phủ đã từng bước giảm tỉ lệ kết hối đối với các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50%, 40%, 30% và hiện nay là 0%.
Việc giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% là bước đi quan trọng trong chủ chương tự do hoá giao dịch vãng lai, phù hợp với thông lệ quốc tế. Giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng ngoại tệ của ngân hàng cho các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu. Bởi vì 2 năm gần đây, lãi suất USD giảm xuống rất thấp, các doanh nghiệp giữ USD trên tài khoản chỉ được hưởng lãi suất 1%/năm. Trong khi đó tỉ giá USD/ VND tương đối ổn định, lãi suất tiền gửi VND cao hơn USD.
Điêù này cũng khuyến khích các doanh nghiệp có thu ngoại tệ bán hết số ngoại tệ thu được cho ngân hàng để lấy VND. Làm như vậy, các doanh nghiệp vừa có tiền chủ động chi trả chi phí hoạt động kinh doanh, vừa được hưởng lãi suất tiền gửi VND cao. Từ thực tiễn này có thể rút ra kết luận: Nếu tỉ giá hợp lý thì không cần chính sách kết hối; việc mua bán ngoại tệ không còn bị ràng buộc mà được tự do hoá, sẽ thúc