Tiểu luận Đầu tư chứng khoán FPI vào các ngân hàng tại Việt Nam

Tại hội thảo Ngân hàng Việt Nam vượt qua khủng hoảng hướng đến tương lai ngày 15/1/2010, Tiến sỹ Lê Xuân nghĩa-phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cho biết : ”Lĩnh vực nhà đầu tư nước ngoài ưu tiên đầu tư nhất hiện nay là ngành tài chính ngân hàng, sau đó là mới đến năng lượng, nhiên liệu, ”. Thật vậy, ngân hàng chính là lĩnh vực chiến lược, là yếu tố quan trọng quyết định tới tính chất mạnh-yếu, sự sống còn củ một nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng mang lại nguồn lợi nhuận vô cùng to lớn cho các nhà đầu tư thông minh. Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư vào nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, mà tại việt Nam là một trong số đó. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất thì FPI lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho DN trong nước dễ dàng tiếp cân với nguồn vốn mới, nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản lí doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ cã mối quan hệ kinh tế. FPI đã hình thành và phát triển từ lâu ở Mỹ và các nước châu Âu, nơi có thị trường rài chính phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, loại hình này đã mở ra cho các doanh nghiệp cách thức tiếp cận với các nguồn vốn mới bên cạnh các nguôn vốn truyền thống, góp phần vào việc thúc đẩy một xu thế mới. Chúng ta có thể thấy, FPI không còn là một khái niệm xa lạ và việc nguồn vốn FPI đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực ngân hàng không phải là khó giải thích. Nhưng để hiểu thấu đáo, cặn kẽ được vấn đề này thì lại không dễ chút nào. Chính vì vậy, chúng tôi muốn cùng các bạn tìm hiểu về thực trạng của dòng vốn FDI vào lĩnh vực ngân hàng trong những năn gần đây, đồng thời sẽ tìm ra nguyên nhân của những bất ổn để từ đó đưa ra được hướng giải quyết tốt nhất cho vấn đề này.

doc20 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đầu tư chứng khoán FPI vào các ngân hàng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Đề tài: Đầu tư chứng khoán FPI vào các ngân hàng tại Việt Nam Thực hiện: Nhóm 14 STT Tên SV Mã SV Ngày sinh Nguyễn Thị Đông (trưởng nhóm). 0851010384 25/11/1990 Nguyễn Phương Thảo Nguyễn Phương Anh Nguyễn Thị Thu Hiền Lê Tiến Định Nguyễn Ngọc Ánh Bupasit Trưởng Nhóm: Nguyễn Thị Đông Số ĐT: 0973.740.583 Email: Dongnt2511@gmail.com Đề tài này nộp kèm các tài liệu bao gồm: Bản mềm Tiểu luận Bản Thuyết trình thực hiện bằng Powerpoint. Một Clip phỏng vấn: Tiến Sỹ Tôn Tích Quý- phó giám đốc trung tâm nghiên cứu và đào tạo chứng khoán (do thành viên của nhóm Nguyễn Thị Đông và Nguyễn Phương Thảo thực hiện). Một clip toàn cảnh kinh tế thế giới giai đoạn 2008-2009. Lời nói đầu Tại hội thảo Ngân hàng Việt Nam vượt qua khủng hoảng hướng đến tương lai ngày 15/1/2010, Tiến sỹ Lê Xuân nghĩa-phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cho biết : ”Lĩnh vực nhà đầu tư nước ngoài ưu tiên đầu tư nhất hiện nay là ngành tài chính ngân hàng, sau đó là mới đến năng lượng, nhiên liệu, …”. Thật vậy, ngân hàng chính là lĩnh vực chiến lược, là yếu tố quan trọng quyết định tới tính chất mạnh-yếu, sự sống còn củ một nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng mang lại nguồn lợi nhuận vô cùng to lớn cho các nhà đầu tư thông minh. Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư vào nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, mà tại việt Nam là một trong số đó. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất thì FPI lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho DN trong nước dễ dàng tiếp cân với nguồn vốn mới, nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản lí doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ cã mối quan hệ kinh tế. FPI đã hình thành và phát triển từ lâu ở Mỹ và các nước châu Âu, nơi có thị trường rài chính phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, loại hình này đã mở ra cho các doanh nghiệp cách thức tiếp cận với các nguồn vốn mới bên cạnh các nguôn vốn truyền thống, góp phần vào việc thúc đẩy một xu thế mới. Chúng ta có thể thấy, FPI không còn là một khái niệm xa lạ và việc nguồn vốn FPI đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực ngân hàng không phải là khó giải thích. Nhưng để hiểu thấu đáo, cặn kẽ được vấn đề này thì lại không dễ chút nào. Chính vì vậy, chúng tôi muốn cùng các bạn tìm hiểu về thực trạng của dòng vốn FDI vào lĩnh vực ngân hàng trong những năn gần đây, đồng thời sẽ tìm ra nguyên nhân của những bất ổn để từ đó đưa ra được hướng giải quyết tốt nhất cho vấn đề này. Đ ầu tư chứng khoán nước ngoài (FPI) vào các Ngân hàng tại Việt Nam MỤC LỤC ˜™ NỘI DUNG Trang Tổng quan về FPI 4 Khái niệm 4 Các nhân tố ảnh hưởng tới động thái dòng FPI 5 các hình thức đầu tư FPI 5 Thực trạng dòng FPI vào lĩnh vực ngân hàng tại nước ta 8 Giai đoạn trước năm 2007. 8 Giai đoạn sau năm 2007. 10 Giải pháp thu hút và sử dụng vốn FPI hiệu quả. 19 I. Tổng quan về FPI 1. Đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI và đặc trưng cơ bản của FPI. a) khái niệm: Vốn đầu tư được phân theo các tiêu chí khác nhau. Theo phương thức đầu tư: có vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp; theo nguồn vốn: có vốn nước ngoài và vốn trong nước v.v.. Điều 3, Luật Đầu tư của Việt Nam được thông qua năm 2005 và có hiệu lực từ tháng 7-2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Theo cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài là các khoản đầu tư gián tiếp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện - để phân biệt với đầu tư gián tiếp trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện - thông qua 2 hình thức chủ yếu sau: - Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác của các doanh nghiệp, của chính phủ và của các tổ chức tự trị được phép phát hành trên thị trường tài chính. - Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính. Cách hiểu này gần với định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment – FPI) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được phát hành bởi một công ty hoặc cơ quan chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc nước ngoài. b) Đặc trưng cơ bản của FPI: Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp phát hành chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nói chung của cơ quan phát hành chứng khoán. Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong trực tiếp đầu tư (FDI). FPI là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính. Như vậy có thể thấy, FPI là một khái niệm khá mới mẻ, nhất là ở nước ta, vì chúng xuất hiện và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán quốc gia và quốc tế. Trên thực tế, mặc dù FPI dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải là đầu tư trực tiếp nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, lập liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh theo hợp đồng hợp tác kinh doanh…), song sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rạch ròi và thống nhất. Chẳng hạn, khi nhà đầu tư dùng vốn của mình để mua cổ phiếu của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu do nhà đầu tư nắm giữ thấp hơn mức nhất định (10% theo tiêu chuẩn của IMF và 30% theo tiêu chuẩn của Việt Nam hiện hành) là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt ngưỡng này lại được xếp vào đầu tư trực tiếp và khi đó, nhà đầu tư có thể dùng quyền bỏ phiếu của mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp… 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến động thái dòng FPI. Cũng như FDI, động thái dòng FPI chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ của các nhân tố như: Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi) Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; mức độ tự do hóa và sức cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện, thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong nước Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng, của các thể chế thị trường nói chung của nước tiếp nhận đầu tư v.v… Nhưng khác với FDI, FPI chịu ảnh hưởng trực tiếp mạnh hơn từ các nhân tố như: Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính. Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước hết là các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu tư đại chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên) Sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khóan, trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng khoán. Dòng FPI sẽ chảy mạnh vào trong nước tỷ lệ thuận và cấp số nhân cùng với sự gia tăng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động hiệu quả ở trong nước, cũng như cùng với việc nới rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp đó… 3) Các hình thức đầu tư FPI. Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài bao gồm: Mua cổ phần, cổ phiếu. Trái phiếu. Các loại giấy tờ có giá khác thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hoặc thông qua các định chế tài chính trung gian khác. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào các nước tồn tại dưới các loại quỹ hoặc các công ty tài chính dưới một số dạng như: Quỹ tương hỗ: Là quỹ được điều hành bởi công ty đầu tư nhằm huy động vốn cổ đông và đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu, hợp đồng option, hàng hoá hay các chứng khoán trên thị trường tiền tệ, thường phát hành chứng khoán quỹ để huy động vốn. Đây là một loại chứng khoán tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nhỏ có khả năng tiếp cận với một danh mục đầu tư đa dạng và có một sự quản lý chuyên môn. Mỗi cổ đông đều có cơ hội được hưởng lãi từ hoạt động đầu tư của quỹ nhưng đồng thời cũng phải chịu lỗ nếu như đầu tư không thành công. Quỹ trợ cấp và hưu bổng: được thành lập để tạo nguồn thu nhập cho những người về hưu và không còn khả năng làm việc. Các quỹ này nhận tiền đóng góp của công nhân, chủ doanh nghiệp và sử dụng nguồn ngân quỹ có được đầu tư vào cá loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị, đầu vào cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp. Các loại quỹ này thường có quy mô nhỏ do đó việc đầu tư bị hạn chế. Công ty bảo hiểm (Insurance Firm): gồm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ (bảo hiểm trách nhiệm và tài sản). Các công ty bảo hiểm có ưu điểm nổi bật là có tiềm lực tài chính mạnh nên khả năng đầu tư lớn nhưng lại có rủi ro cao, do đặc tính của ngành. Các tổ chức tài chính (Financial Corporation): các tổ chức hoặc các tập đoàn kinh tế lớn khi muốn đầu tư vào thị trường nước ngoài thường thiết lập các quỹ đầu tư trên thị trường đó. Đầu tư dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật, mua cổ phần hoặc huy động vốn. Các quỹ này không trực tiếp tham gia vào việc điều hành và quản lý doanh nghiệp mà chỉ thông qua việc hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật. Việc cấp vốn được thực hiện thông qua các trung gian tài chính là ngân hàng. Loại quỹ này có tiềm lực tài chính mạnh, quay vòng vốn nhanh nên khả năng đầu tư vào thị trường cao. Tuy nhiên để tiếp cận được nguồn vốn này thì các doanh nghiệp phải đáp ứng các nhu cầu khắt khe hơn từ phía nhà đầu tư. Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Funds): đầu tư mạo hiểm là việc các chuyên gia đầu tư tiến hành bỏ vốn vào các công ty có tiềm năng mặc dù còn mới. Nhà đầu tư không trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh của công ty mà đóng vai trò cố vẫn, hỗ trợ các giải pháp điều hành tiên tiến để thúc đầy sự phát triển kinh doanh. Những lĩnh vực mà nhà đầu tư lựa chọn thường là những lĩnh vực có khả năng phát triển cao. Nhà đầu tư mạo hiểm thường đầu tư vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực công nghệ cao nên quỹ đầu tư mạo hiểm trở thành người đỡ đầu cho các công ty mới hình thành, thiếu vốn và uy tín. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường được thành lập tư các công ty hoặc tập đoàn kinh tế lớn nên có tiềm lực kinh tế mạnh, đội ngủ chuyên gia đầu tư hung hậu, có khả năng phân tích tình hình đầu tư. Các chiến lược đầu tư thường là dài hạn và đã có sự tính toán tỉ mỉ. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường thu lợi rất lớn nếu dự án thành công, nhưng rủi ro, nếu xảy ra, cũng có hậu quả nặng nề hơn các hình thức đầu tư khác. II. Thực trạng vốn FPI vào ngành ngân hàng tại nước ta Ngày 7/11/ 2006 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, Đánh đấu bước phát triển mới cho đất nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài được dự báo là sẽ tăng mạnh song song cùng với sự phát triển nóng của nền kinh tế. Do đó chúng tôi lấy đấu mốc là năm 2007 để thực hiện đề tài. Giai đoạn trước năm 2007: Kể từ khi Việt Nam tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng thị trường, mở cửa với thế giới, những dòng đầu tư nước ngoài đã bắt đầu chuyển hướng đổ vào Việt Nam. Bên cạnh dòng vốn FDI tăng mạnh, nước ta tiếp nhận những luồng vốn FPI đầu tiên. Nguồn: Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước- tài liệu nghiên cứu về quá trình hình thành của thị trường chứng khoán Việt Nam kỷ niệm 10 năm mở cửa thị trường 2000-2010. Lịch sử  đã ghi nhận làn sóng đầu tư gián tiếp đầu tiên đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm đầu của thập kỉ 90 với sự xuất hiện của 7 quỹ đầu tư nước ngoài, tổng lượng vốn huy động được khoảng 700 triệu USD. Nhưng sau đó, các quỹ đã lần lượt rút lui. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thoái trào của làn sóng đầu tư này, trong đó có nguyên nhân về sự thiếu đồng bộ cũng như bất cập trong chính sách kinh tế đối ngoại. Thời điểm chứng kiến sự chấm dứt của làn sóng đầu tư gián tiếp thứ nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997. Lúc đó chỉ còn lại duy nhất quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund (VIEL) do công ty Dragon Capital quản lý. Từ năm 2002, làn sóng thứ 2 đã được khởi động lại với sự xuất hiện của quỹ Mekong Enterprise Fund với số vốn 18,5 triệu USD và cao điểm bắt đầu từ giữa năm 2006 khi có 19 công ty quản lý quỹ được hình thành và trên 1000 nhà đầu tư trên khắp thế giới đăng ký tài khoản tại Việt Nam, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia. Chỉ riêng thời điểm cuối năm 2006, vốn FPI là trên 2 tỷ USD, cao hơn tất cả các giai đoạn trước cộng lại, và đến năm 2007 đạt đến mức kỷ lục, khoảng 8 tỷ USD Rõ ràng, Giai đọan trước năm 2007 mà đặc biệt là từ năm 2003-2006 là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện đầu tư, phát triển các định chế thị trường tài chính. Việc thành lập sàn giao dịch chứng khoán ở TP.Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, đặc biệt chủ trương và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh việc cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp, theo đó, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tỷ lệ sở hữu được áp dụng tối đa 15%. Trường hợp đặc biệt, Thủ tướng sẽ căn cứ đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quyết định mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan vượt quá 15%, nhưng tối đa bằng 20%.Trước năm 2003, các NĐT nước ngoài chỉ được phép nắm giữ 20% cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết, trong đó một thể chế được nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân dược nắm giữ tối đa 3%. Đến năm 2003, theo Quyết định số 146/2003/QĐ - TTg, tỷ lệ nắm giữ của các NĐT nước ngoài tăng lên ở mức 30%, ngang bằng với mức cổ phần mà NĐT nước ngoài có thể nắm giữ theo các quy định về cổ phần hoá DNNN. Từ sau ngày 29/9/2005, với sự ra đời của Quyết định 238/2005/QĐ - TTg thay thế cho Quyết định số 146/2003/QĐ – tăng trưởng, thì tổ chức, cá nhân nước ngoài mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một tổ chức trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, và không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu lưu hành. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được mua cổ phần, góp vốn liên doanh thành lập công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tối đa là 49% vốn điều lệ. Ở giai đoạn này, các ngân hàng bắt đầu cổ phần hóa, gia tăng các hình thức huy động vốn. Lượng đầu tư chủ yếu vào thị trường trái phiếu, các nhà đầu tư nước ngoài tích cực thu mua các trái phiếu ngân hàng. Tuy nhiên cổ phiếu ngân hàng giai đoạn này không phải là đối tượng tìm kiếm của các nhà đầu tư: Nguồn số liệu: thời báo kinh tế số 137 ra ngày 2/3/2008. Bài nghiên cứu của Tiến sỹ Lê Hoàng Minh. Phải đến cuối năm 2006, động thái thu hút vốn đầu tư đặc biệt FPI của các ngân hàng mới thể hiện rõ nét, cuối năm 2006 đánh dấu thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, đây là một dấu mốc quan trọng cho đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cùng với sự đi lên của thị trường chứng khoán, luồng vốn liên tục tăng nhanh và liên tục thu hoạch thành công. Điển hình là: Ngân hàng Standard Chartered - cổ đông và đối tác chiến lược của ACB kể từ tháng 7 năm 2005 khi thu mua 7,1 % giá trị trái phiếu phát hành của ACB. Ngày 22/11/2006. ACB- ngân hàng Á Châu trở thành ngân hàng đầu tiên niêm yết chứng khoán trên sàn HN X. Đánh dấu mốc gia nhập thị trường chứng khoán của các ngân hàng TMCP. Giai đoạn sau năm 2007: Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những cam kết nhằm dỡ bỏ những ràng buộc về mặt pháp lý đang đưa Việt Nam đến gần hơn với những chuẩn mực kinh doanh của thế giới và các nhà đầu tư quốc tế đang dần cảm thấy an toàn hơn khi bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam. Thêm vào đó, quá trình cổ phần hóa đang đi vào giai đoạn quan trọng nhất, khi các doanh nghiệp lớn sẽ lần lượt lên sàn trong thời gian tới, thị trường chứng khoán tăng trưởng nóng và trở thành hiện tượng, làn sóng thứ ba về đầu tư gián tiếp vào Việt Nam không còn ở dạng tiềm năng. Theo một ước tính, với khoảng 80 đến 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên thế giới hiện nay bao gồm các quỹ đầu tư, các công ty quản lý quỹ, các ngân hàng đầu tư… thì luồng vốn mà họ đang nắm giữ không dưới, 100 tỉ USD. Chỉ cần họ đồng ý bỏ 1% trong số đó vào Việt Nam là nền kinh tế đã có thêm khoảng 1 tỷ USD. Tuy nhiên trên thực tế dường như tham vọng của các định chế này trên thị trường Việt Nam lớn hơn so với con số đó rất nhiều và chắc chắn đây sẽ là động lực mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Hoạt động mua bán sáp nhập (M & A) thông qua mua bán các cổ phiếu ngân hàng hình thành sôi động hơn bao giờ hết. Thời gian gần đây, làn sóng mua lại cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam diễn ra khá sôi động. Những nhà đầu tư nước ngoài đổ tiền vào các ngân hàng thương mại Việt Nam không ai khác chính là các tập đoàn ngân hàng, tài chính lớn trên thế giới (HSBC, Dragon Capital, Deutsch Bank, Standard Chartered Bank, ANZ…). Những nhà đầu tư tiên phong này, đã sớm trở thành các cổ đông chiến lược trong ngành tài chính, ngân hàng Việt Nam. (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nghiên cứu quá trình cổ phần hóa Ngân hang, tác giả Nguyễn Sơn) Trong đó điển hình là các thương vụ: Ngày 2/10/ 2007 HSBC- Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải trở thành ngân hàng ngoại đầu tiên sở hửư 20 % cổ phiếu Ngân hàng tại việt nam. HSB đã trả 1.272 tỉ đồng (xấp xỉ 77,1 triệu USD) để sở hữu thêm 5,6% cổ phần Techcombank. Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, đây sẽ là ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước ngân hàng TECOMBANK tại việt nam sau thương vụ được xúc tiến trước đó HSBC mua lại 10% vốn cổ phần của Techcombank Tháng 12/2005. Cũng trong Năm 2007, Công ty Bảo hiểm tập đoàn Tài chính HSBC mua 10% cổ phần Bảo Việt với số tiền lên đến 225 triệu đô la Mỹ. Ta thấy, chỉ một thương vụ thôi đã gần bằng con số “300 triệu đô la Mỹ mơ ước” của hồi 2005! 5/2008, Ngân hàng Standard Chartered cho biết, ngân hàng này đã đạt được thỏa thuận mua thêm cổ phần của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) từ Công ty Tài chính quốc tế (IFC). Số lượng cụ thể là mua thêm 6,16% cổ phần và thêm 7,10% trái phiếu chuyển đổi của ACB. Với thương vụ mua bán này, vốn đầu tư của Standard Chartered vào ACB từ 8,84% cổ phần và 8,76% trái phiếu chuyển đổi được nâng lên lần lượt là 15% và 15,86%. Như vậy, Standard Chartered đã sở hữu tỷ lệ tối đa của một nhà đầu tư ngoại khi đầu tư vào các ngân hàng Việt Nam.  Một diễn biến trái chiều trên thị trường cổ phiếu ngân hàng đang diễn ra:  đối tác chiến lược nước ngoài tăng cường mua cổ phiếu (CP) trong khi  một số Tập đoàn kinh tế trong nước lại rút vốn. Trong năm 2007, khối lượng mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài có nhiều biến dộng, đặc biệt khối lượng lớn trong những tháng đầu năm. Khi khủng hoảng thị trường nhà đất Mỹ 2008 diễn ra kéo theo sự đổ vỡ của nền kinh tế toàn cầu, trong bối cảnh kinh doanh khó khăn, nhiều nhà đầu tư nước ngoài có động thái rút vốn ra khỏi thị trường: Biểu đồ về khối lượng mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài từ tháng 1/2007 đến 11/2008 (đơn vị: triệu USD) - Nguồn Bloomberg. Biểu đồ chỉ rõ: khối lượng mua ròng chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2008 bắt đầu giảm mạnh, từ gần 300 triệu USD trong 1/2007 chỉ còn chưa đầy 50 triệu USD trong tháng 1 năm 2008, chỉ bằng 30 % so cùng kỳ năm 2007, và đến giai đoạn cuối năm thì đạt đến mức âm -50 triệu USD à hiện tượng bán tháo chứng khoán của các nhà đầu tư nhằm thu hồi vốn. Tuy nhiên, Sau năm 2007, một loạt các ngân hàng đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nhằm tích cực hơn trong động thái thu hút vốn đầu tư nước ngoài FPI. Ngày 27/10/2009, một sự kiện lớn thu hút được sự quan tâm đông đảo của giới đầu tư chứng khoán. Đó là sự kiện Ngân hàng T
Tài liệu liên quan