Tiểu luận Đồng tiền chung châu Á - ACU

Ngày nay, mọi người đều nhận thức được rằng một quốc gia không thể phát triển đầy đủ và giàu có nếu không có sự giao lưu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. với cộng đồng thế giới. Sự thật này đã khiến nhiều quốc gia xoá bỏ hận thù, hiềm khích, vượt qua không gian và những bất đồng về quan điểm. để thực hiện hợp tác và phát triển các quan hệ kinh tế. Các nước châu Á cũng nhận thức được quy luật trên nên không ngừng nỗ lực gia tăng liên minh khu vực, mà sự thể hiện phát triển của nó là đồng tiền chung châu Á - ACU. Sau khủng hoảng năm 1997, các quốc gia châu Á đã bắt đầu nung nấu ý tưởng về một đồng tiền chung. Và sau khi đồng EURO ra đời vào năm 1999, ý tưởng này ngày một được quyết tâm hiện thực hóa hơn. Song các vấn đề liên quan đến đồng tiền chung này như nó có khác gì đồng tiền chung châu Âu không, hay phương pháp kỹ thuật để tính la gì, khả năng hình thành đồng tiền này có thể ra đời được không và nếu có, thì cần thời gian bao lâu? vẫn là câu hỏi lớn cho các nền kinh tế thành viên. Xuất phát từ các vấn đề trên, nhóm tiểu luận xin chọn đề tài “Đồng tiền chung châu Á - ACU”. Thông qua bài tiểu luận, nhóm xin giới thiệu khái quát nhất về đồng ACU và đánh giá khả năng hình thành của nó. Kết cấu bài tiểu luận gồm: I. Khái quát tình hình kinh tế Châu Á trong giai đoạn hiện nay và nhu cầu hình thành đồng ACU II. Ý tưởng hình thành đồng tiền chung châu Á (ACU) III. Đánh giá khả năng hình thành đồng tiền chung châu Á - ACU trong bối cảnh hiện nay

doc14 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đồng tiền chung châu Á - ACU, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, mọi người đều nhận thức được rằng một quốc gia không thể phát triển đầy đủ và giàu có nếu không có sự giao lưu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... với cộng đồng thế giới. Sự thật này đã khiến nhiều quốc gia xoá bỏ hận thù, hiềm khích, vượt qua không gian và những bất đồng về quan điểm... để thực hiện hợp tác và phát triển các quan hệ kinh tế. Các nước châu Á cũng nhận thức được quy luật trên nên không ngừng nỗ lực gia tăng liên minh khu vực, mà sự thể hiện phát triển của nó là đồng tiền chung châu Á - ACU. Sau khủng hoảng năm 1997, các quốc gia châu Á đã bắt đầu nung nấu ý tưởng về một đồng tiền chung. Và sau khi đồng EURO ra đời vào năm 1999, ý tưởng này ngày một được quyết tâm hiện thực hóa hơn. Song các vấn đề liên quan đến đồng tiền chung này như nó có khác gì đồng tiền chung châu Âu không, hay phương pháp kỹ thuật để tính la gì, khả năng hình thành đồng tiền này có thể ra đời được không và nếu có, thì cần thời gian bao lâu? vẫn là câu hỏi lớn cho các nền kinh tế thành viên. Xuất phát từ các vấn đề trên, nhóm tiểu luận xin chọn đề tài “Đồng tiền chung châu Á - ACU”. Thông qua bài tiểu luận, nhóm xin giới thiệu khái quát nhất về đồng ACU và đánh giá khả năng hình thành của nó. Kết cấu bài tiểu luận gồm: I. Khái quát tình hình kinh tế Châu Á trong giai đoạn hiện nay và nhu cầu hình thành đồng ACU II. Ý tưởng hình thành đồng tiền chung châu Á (ACU) III. Đánh giá khả năng hình thành đồng tiền chung châu Á - ACU trong bối cảnh hiện nay I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ CHÂU Á HIỆN NAY VÀ NHU CẦU HÌNH THÀNH ĐỒNG ACU Tình hình kinh tế châu Á hiện nay Kinh tế là một trong những nhân tố rất quan trọng trong việc phát triển liên kết khu vực. Do vậy, nó sẽ có vai trò trong việc thúc đẩy hay cản trở hình thành đồng tiền chung châu Á. Thông qua đánh giá khái quát về tình hình chung châu Á trong giai đoạn hiện nay, chung ta cũng có được những cơ sở về việc hình thành đồng ACU. Cũng như các quốc gia khác, các nước châu Á bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ trong những năm vừa qua. Các nước đều đang phải nỗ lực trong cuộc chiến chống lạm phát và thâm hụt ngân sách, trong đó phải kể đến như Việt Nam, Ấn Độ và Nhật Bản. Bên cạnh đó, có những nước đang trên đà hồi phục nhanh như: Philippine, Trung Quốc… Điều này càng tạo ra sự chênh lệch giữa các nước châu Á. Nhưng đánh giá chung, hiện nay châu Á không những tăng trưởng mạnh mẽ mà còn là đầu tầu kéo nền kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng GDP thực của châu Á mặc dù giảm xuống mức 4,9% năm 2009 (mức thấp nhất kể từ năm 2001), nhưng tăng mạnh khoảng 8,2% năm 2010. Mặc dù vẫn thấp hơn mức 9,3% của năm 2007, nhưng đây đã là một kết quả hết sức ấn tượng, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu trì trệ sau đợt suy thoái sâu nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Và bình luận cho tốc độ tăng trưởng này, các chuyên gia kinh tế cho rằng mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế châu Á giảm nhưng nó cũng thể hiện Châu Á đang hướng tới sự phát triển bền vững. 2. Nhu cầu hình thành đồng ACU * Xuất phát từ thực tế: - Sau khủng hoảng tài chính – kinh tế châu Á năm 1997, các nước châu Á liên tục hợp tác chặt chẽ về kinh tế - tài chính và người ta cũng đã tính đến một hướng đi mới trong quá trình hợp tác, thậm chí hợp nhất đơn vị tiền tệ tại khu vực - Sự trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước châu Á ngày càng tăng đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc - Tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí khám phá khả năng hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào 2020 với sự hội nhập kinh tế ở mức độ cao hơn. * Xuất phát từ điều kiện khách quan: - Năm 2003, cha đẻ của đồng euro cũng đưa ra kiến nghị xây dựng một đồng tiền chung cho châu Á, cùng sử dụng song song với đồng tiền hiện tại của các nước trong khu vực. - Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dự trữ bằng USD dần bị phân tán, trong khi đồng Euro và yên Nhật đã trở thành một trong những đồng tiền đáng tin cậy cho các nguồn vốn dự trữ. Tuy nhiên, do sức cạnh tranh của kinh tế châu Âu và Nhật Bản bị suy giảm nên USD vẫn là đồng tiền mạnh nhất. Do đó, nhu cầu hình thành đồng ACU càng cần thiết ,đóng góp rất lớn thúc đẩy kinh tế châu Á phát triển, củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế châu Á, phù hợp với trào lưu toàn cầu hóa. II. SỰ HÌNH THÀNH ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU Á (ACU) Khái quát đồng ACU - Đồng ACU, đồng tiền chung Châu Á là đơn vị tiền tệ dự tính cho các nền kinh tế trong ASEAN +3 (Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc). - Đồng ACU lấy ý tưởng từ đồng Euro của các nước Châu Âu. ACU chưa phải là một đồng tiền thực mà mới dừng lại là chỉ số đại diện cho một rổ tiền tệ, tức là một chỉ số bình quân gia quyền của đồng tiền các nước Đông Á, đóng vai trò như một chuẩn mực để đánh giá các biến động tiền tệ trong khu vực. - Đơn vị tiền tệ mới này được phát hành trên cơ sở giá trị trung bình của 15 đồng tiền của 15 nền kinh tế Châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN). Số đồng tiền thành phần có thể được bổ sung, nâng tổng số đồng tiền làm cơ sở tính toán lên 40 đồng nội tệ, trong đó có tiền của Ấn Độ, Australia, Newzealand . - Giá trị tương đối của mỗi đồng tiền thành phần của cả hệ thống sẽ được tính toán dựa trên tổng sản phẩm quốc nội và giá trị thương mại của quốc gia sử dụng đồng tiền cũng như giá trị của đồng tiền đó - Các đồng tiền của Nhật Bản, Trung Quốc, và Hàn Quốc sẽ có giá trị lớn hơn trong hệ thống các đồng tiền được dùng làm cơ sở tính toán 2. Tác động của ACU * Đối với khu vực: Những lợi thế về kinh tế: + Thuận lợi trong việc giảm tính dễ bị tổn thương bởi sự biến động tỷ giá hối đoái. + Cho phép phát hành trái phiếu bằng đồng tiền tệ khu vực và có lợi cho việc khắc phục sự bất bình đẳng quốc tế. + Việc xây dựng tính độc lập của Châu Á về hệ thống hỗ trợ và giám sát tài chính riêng sẽ làm cho kinh tế toàn cầu và hệ thống tài chính thêm vững chắc hơn và có khả năng phát triển kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm riêng khu vực Châu Á. Những lợi thế về chính trị: Bao gồm sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau và phối hợp chính trị uyển chuyển trong khu vực, đóng góp cho một ý thức về bản sắc Châu Á. * Đối với thế giới: + Trong quá trình giới thiệu một đồng tiền chung, tiến trình tự do hóa kinh tế sẽ được giải quyết (bao gồm tự do hoá thương mại khu vực và các giao dịch vốn), làm cho việc tiếp cận đến thị trường Châu Á dễ dàng. Tự do hóa thương mại toàn cầu và giao dịch vốn sẽ thúc đẩy sự ổn định nền kinh tế toàn cầu. + Xét về lợi thế chính trị, việc giới thiệu một đồng tiền chung Châu Á sẽ làm nó khó hơn cho xung đột chính trị để xảy ra trong khu vực, tăng ổn định chính trị trong khu vực Châu Á, góp phần ổn định chính trị toàn cầu. + Xét về lợi ích kinh tế, nó sẽ làm cho sự phát triển kinh tế trong khu vực Châu Á hiệu quả hơn và ổn định hơn, và sẽ tạo ra những thị trường đầy hứa hẹn cho phần còn lại của thế giới..Hơn nữa, đối với những nền kinh tế quy mô nhỏ hơn, lưu hành một loại tiền tệ lớn sẽ ổn định thương mại và giao dịch vốn, làm gia tăng sự ổn định nền kinh tế. + Trong quá trình giới thiệu một đồng tiền chung, tiến trình tự do hóa kinh tế sẽ được giải quyết (bao gồm tự do hoá thương mại khu vực và các giao dịch vốn), làm cho việc tiếp cận đến thị trường Châu Á dễ dàng. Tự do hóa thương mại toàn cầu và giao dịch vốn sẽ thúc đẩy sự ổn định nền kinh tế toàn cầu. + Xét về lợi thế chính trị, việc giới thiệu một đồng tiền chung Châu Á sẽ làm nó khó hơn cho xung đột chính trị để xảy ra trong khu vực, tăng ổn định chính trị trong khu vực Châu Á, góp phần ổn định chính trị toàn cầu. 3. Lộ trình giới thiệu đồng ACU a/ Giai đoạn một: Xây dựng cơ chế hợp tác khu vực trong những năm 2010 Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc cần đạt được thỏa thuận chắc chắn về việc thực hiện một đơn vị tiền tệ chung châu Á (ACU). Thành lập một hội đồng bao gồm thống đốc ngân hàng trung ương châu Á và bộ trưởng tài chính là cần thiết và đưa vấn đề ra thảo luận chi tiết giữa các nước châu Á khác. Tăng cường hợp tác về chính sách tài chính, tiền tệ, và kinh tế giữa các quốc gia, và xây dựng một chức năng giám sát cho các xu hướng kinh tế vĩ mô và tài chính khu vực và chương trình hỗ trợ tài chính mở rộng và đa tầng. Thúc đẩy sự chuyển đổi đồng tiền của các nước, giảm thiểu kiểm soát ngoại hối, thay đổi sang một hệ thống trao đổi lãi suất thả nổi, và bảo đảm sự độc lập của các ngân hàng trung ương, loại bỏ các rào cản đối với sự di chuyển tự do về vốn trong khu vực. b/ Giai đoạn hai: Thiết lập 1 đơn vị tiền tệ Châu Á trong thập niên những năm 2020 Thiết lập một cơ chế tiền tệ chung cho Châu Á và định ra một đơn vị tiền tệ chung cho Châu Á thông qua thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và thúc đẩy việc phát hành của các tổ chức trái phiếu quốc tế tính bằng đơn vị tiền tệ châu Á. Nhật Bản tận dụng các nguồn dự trữ ngoại tệ để chủ động đầu tư vào cơ chế tiền tệ chung Châu Á và chuyển qua tính các khoản cho vay bằng đồng yên bằng các đơn vị tiền tệ chung Châu Á và tích cực thúc đẩy việc phát hành trái phiếu tính bằng đơn vị tiền tệ chung Châu Á, sử dụng tiết kiệm và đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ghi bằng các đơn vị tiền tệ chung Châu Á . Thiết lập một cơ chế tiền tệ chung cho Châu Á và định ra một đơn vị tiền tệ chung cho Châu Á thông qua thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và thúc đẩy việc phát hành của các tổ chức trái phiếu quốc tế tính bằng đơn vị tiền tệ châu Á. Nhật Bản tận dụng các nguồn dự trữ ngoại tệ để chủ động đầu tư vào cơ chế tiền tệ chung Châu Á và chuyển qua tính các khoản cho vay bằng đồng yên bằng các đơn vị tiền tệ chung Châu Á và tích cực thúc đẩy việc phát hành trái phiếu tính bằng đơn vị tiền tệ chung Châu Á, sử dụng tiết kiệm và đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ghi bằng các đơn vị tiền tệ chung Châu Á . Cuộc họp thường xuyên của các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương phải được nâng cấp lên một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh châu Á. Thúc đẩy hiệp ước quốc tế trong tài chính quốc tế và các tổ chức thương mại, xây dựng sự đồng thuận với các nước ngoài khu vực châu Á, chẳng hạn như Mỹ và các quốc gia châu Âu. c/ Giai đoạn ba: Giới thiệu một đồng tiền chung châu Á trong những năm 2030 trở đi Các nước tham gia trong hệ thống tiền tệ mới cần phải đặt nền tảng và xây dựng sự đồng thuận trong nước. Các ngân hàng trung ương mới và tiền tệ mới sẽ được thành lập. Các chính sách của ngân hàng trung ương châu Á thống nhất sau đó sẽ được xây dựng và đồng tiền duy nhất được giới thiệu. III. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG HÌNH THÀNH ĐỒNG ACU TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY Vấn đề hình thành chung đồng tiền chung châu Á vẫn là vấn đề băn khoăn và đầy tính thời sự hiện nay. Có hai ý kiến trái ngược về vấn đề này. Ý kiến thứ nhất cho rằng Châu Á nên có đồng tiền châu Á và không khó để có. Đối lập với ý kiến thứ nhất, thì người ta cho rằng việc có được đồng tiền chung châu Á là rất khó trong tình hình hiện nay. Qua việc đánh giá những thuận lợi và khó khăn của việc hình thành đồng tiền chung châu Á, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này. 1. Thuận lợi 1.1 Nền tảng kinh tế của các nước châu Á hiện nay tương đối tốt Mặc dù các nước châu Á cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 nhưng hiện nay các nước đang dần hồi phục khả quan. Theo dự báo của IMF, châu Á sẽ tiếp tục dẫn đầu tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong hai năm tới bất chấp lạm phát đang diễn ra và bất ổn ở Trung Đông với tốc độ tăng trưởng là 7%. Ngoài ra, mức nợ chính Phủ và tư nhân đều ở mức chấp nhận được. Các quốc gia châu Á sẽ khó có thể nghĩ đến đồng tiền chung khi mà nền kinh tế phải đối đầu với những khó khăn, tốc độ tăng trưởng thấp. Thêm vào nữa, sự khác biệt về tài sản và thu nhập của các nước cũng đang dần được thu hẹp. Như vậy, nền kinh tế phát triển khả quan như trên tạo tiền đề tốt cho sự hình thành đồng tiền chung của khu vực. 1.2 Sự chuyển dịch nền kinh tế từ phương Tây sang phương Đông Những năm gần đây, Trung Quốc nổi lên như cơn bão kinh tế trở thành nền kinh tế thứ hai trên thế giới. Ngoài ra, chúng ta còn biết đến các nền kinh tế mới nổi khác như Ấn Độ… Các nền kinh tế trên góp phần đưa châu Á lên vị thế mới trên trường quốc tế. Nó cũng thể hiện đang có sự chuyển dịch từ phương Tây sang phương Đông. Điều này thúc đẩy các nước châu Á phải có sự liên minh chặt chẽ hơn để đưa vị thế của mình lên cao hơn, mà hình thức thể hiện của nó là đồng tiền chung. 1.3 Sự ra đời của đồng EURO tạo tiền đề thuận lợi cho sự ra đời của đồng tiền chung châu Á - ACU Ngày 01 tháng 01 năm 1999, đồng EURO ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự phát triển liên minh giữa các quốc gia của châu Âu, đó cũng là mốc quan trọng cho hệ thống tài chính quốc tế. Dù hiện nay, châu Âu cũng đang gặp một số vấn đề khó khăn với với đồng tiền này nhưng trên hết EURO vẫn chứng tỏ được vị thế vai trò của mình. Chính vì vậy, đồng EURO tạo tiền đề quan trọng cho ý tưởng hình thành đồng tiền ACU. Dựa trên nghiên cứu về hình thành đồng EURO, các nhà hoạch định cho đồng ACU dễ dàng hơn trong việc xác định các vấn đề như vấn đề kỹ thuật cho đồng tiền, điều kiện hình thành… Hay chính những khó khăn mà các nước châu Âu đang gặp phải hiện nay sẽ giúp các nước châu Á phòng tránh và có những điều chỉnh phù hợp. 2. Khó khăn Bên cạnh thuận lợi trên, các nhà hoạch định cho đồng ACU phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. 2.1 Sự liên kết về kinh tế giữa các thành viên trong khu vực còn ở mức thấp Các liên kết phổ biến hiện nay trên thế giới là: Khu vực mậu dịch tự do, Liên minh thuế quan, Thị trường chung, Liên minh tiền tệ và liên minh kinh tế. Bảng 1: Các liên kết phổ biến hiện nay A2/A1 (1) (2) (3) (4) (5) FTA Liên minh thuế quan Thị trường chung Liên minh tiền tệ Liên minh kinh tế Nguồn: Tổng hợp A1: Đặc trưng A2: Mức độ liên kết (1): Hàng hoá dịch vụ di chuyển tự do (2): Thống nhất chính sách thuế quan với các nước không phải là thành viên (3): Sức lao động và tư bản di chuyển tự do (4): Phát hành đồng tiền tập thể thống nhất (5): Hình thành trung tâm kinh tế mới Hiện nay, châu Âu đang trải qua liên kết liên minh kinh tế còn các nước châu Á mới dừng lại ở liên minh khu vực mậu dịch tự do còn sơ khai. Khu vực mậu dịch tự do của ASEAN+3 vẫn chưa được hình thành, chúng ta mới chỉ có khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA và ACFTA. AFTA ra đời với mục đích đưa các nước ASEAN trở thành cơ sở sản xuất của thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng cường giao thương nội khối. Nhưng đến thời điểm này, kết quả AFTA mang lại không như kỳ vọng của các thành viên. Cụ thể như sau: + Thứ nhất, giao dịch nội khối của các nước trong khu vực còn quá thấp, mới đạt được khoảng 20-25%, trong khi đó tại châu Âu tỷ lệ này cao gấp khoảng 4 lần là từ 70-75% kim ngạch thương mại của toàn khối. Hội nghị thượng đỉnh vừa qua cũng đã đề cập tới các biện pháp nhằm thúc đẩy giao dịch nội khối lên khoảng 30-35% vào năm 2015. Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2009 + Thứ hai, việc cắt giảm hàng rào thuế quan và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan của các quốc gia thành viên chưa tạo được hiệu quả. Mức độ cắt giảm thuế và mức thuế không thống nhất giữa các quốc gia. Và việc cắt giảm hay xóa bỏ này có tác động không lớn đối với kim ngạch xuất nhập khẩu của từng nước. + Thứ ba, nếu như các nước châu Âu mong muốn ra đời đồng tiền chung bởi lẽ họ cho rằng vào thời điểm đó rào cản về thuế cũng như phi thuế không còn giữa các nước trong khu vực, công dân được đi lại tự do, còn tại châu Á điều này vẫn còn hạn chế. Lao động không được di chuyển tự do giữa các quốc gia vẫn cần visa và thị thực riêng. ASEAN đang lên kế hoạch phát hành thị thực chung cho công dân trong khối vào năm 2015. Với những kế hoạch trên, ASEAN đang tích cực khắc phục những rào cản hiện tại để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc hình thành đồng tiền chung châu Á. 2.2 Sự khác biệt lớn giữa các quốc gia Theo lý thuyết về “Khu vực tối ưu”, điều kiện quan trọng cho sự thành công của liên minh khu vực trong đó có liên minh về tiền tệ là sự đồng đều của các quốc gia trong khu vực đó. Sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu cũng dựa trên điều kiện đó. Mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan và Singapore) với ASEAN 4 khá cao - được coi là yếu tố cản trở chính của sự liên kết. Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở 4 lĩnh vực chủ yếu (4I), gồm: kết cấu hạ tầng, thu nhập, liên kết và thể chế. Mức chênh lệch đó được thể hiện trên các phương diện sau: + Thứ nhất, sự chênh lệch lớn nhất là mức độ mở cửa thị trường. Thuế nhập khẩu trung bình của ASEAN ở mức 9,53% dao động từ 0% (Singapore) đến 17.92% (Việt Nam). Để nhập khẩu bất kỳ loại hàng nào trong ASEAN cần mất thời gian trung bình là 32 ngày. Mức dao động khác nhau từ 3 ngày (Singapore) tới 45 ngàu (Campuchia) và 78 ngày (Lào). Thời gian trung bình để bắt đầu hoạt động kinh doanh ở ASEAN là 64 ngày, trong khi đó ở Singapore chỉ cần 6 ngày, còn ở Indonesia là 97 ngày và Lào là 163 ngày. + Thứ hai, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành của Singapore (25.207 USD) - cao gấp 152 lần so với Mianma (166 USD) - nước nghèo nhất khu vực. Thu nhập bình quân đầu người của Malaysia cũng chỉ bằng ½ hoặc 1/5 Singapore. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người của Philippine chỉ bằng ¼ Malaysia. Biểu đồ 3: GDP/người năm 2010 của các nước ASEAN + 3 Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010 Trong khi đó, vào thời điểm hình thành đồng EURO, các nước EU có GDP/người tương đối đồng đều: Biểu đồ 4: GDP/người của các nước EU năm 2000 Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010 + Thứ ba, chênh lệch về cơ cấu kinh tế. Không chỉ GDP đầu người giữa các nước thành viên chênh lệch mà trình độ phát triển của các nước thành viên cũng khác nhau nhiều. Trong khi Singapore được đánh giá là nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao thứ 6 trên thế giới (năm 2005), thì Việt Nam chỉ được xếp thứ 81/117, Cam-pu-chia xếp thứ 112/117. Tăng trưởng xuất khẩu chế tạo và mức đóng góp của ngành dịch vụ trong GDP của ASEAN 6 cũng chiếm khá cao (hơn 40%) so với mức 26% - 27% của các nước ASEAN 4 kể từ năm 2003 đến nay. + Thứ tư, chênh lệch trong xu hướng xuất khẩu. ASEAN 6 chiếm ưu thế trong đóng góp xuất khẩu vào GDP (85%) so với 31% của ASEAN 4 từ năm 2004, trong khi nhập khẩu đóng góp 21% GDP của ASEAN 4 so với 66% GDP của ASEAN 6. Singapore được coi là nền kinh tế tự do thứ 2 trên thế giới (năm 2006), trong khi Phi-lip-pin, In-đô-nê-xi-a và Việt Nam được xem là những nền kinh tế ít tự do (thứ tự xếp hạng tương ứng là 98, 134 và 142). Lào và Mi-an-ma là những nền kinh tế phi tự do nhất, đứng vị trí thứ 149 và 155. Sự khác nhau trong xu hướng thương mại dẫn đến sự chênh lệch thuế quan. + Thứ năm, chênh lệch về chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI). Dựa trên các thông số về tuổi thọ, mức chi tiêu cho giáo dục, sức khỏe, tỷ lệ người biết chữ... ASEAN +3 được chia thành 4 nhóm về HDI: nhóm 1 "phát triển nguồn nhân lực cao" gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Bru-nây; nhóm 2 "phát triển nguồn nhân lực trung bình cao" gồm Ma-lai-xi-a, Trung Quốc, Phi-lip-pin và Thái Lan; nhóm 3 "phát triển nguồn nhân lực trung bình" gồm In-đô-nê-xi-a và Việt Nam; cuối cùng là nhóm "phát triển nguồn nhân lực trung bình thấp" gồm 3 nước còn lại là Cam-pu-chia, Lào và Mi-an-ma. Biểu đồ 5: Chỉ số HDI của các nước ASEAN + 3 năm 2010 Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010 Và HDI của các nước EU: Biểu đồ 6: Chỉ số HDI của các nước EU năm 2010 Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010 + Thứ sáu, chênh lệch mức giàu nghèo. Theo tiêu chí đánh giá mức nghèo của quốc tế (dưới USD 1/ngày), Lào và Cam-pu-chia có số dân sống dưới ngưỡng nghèo cao nhất, trong khi đó Singapore (0%); Ma-lai-xi-a (0,2%); Phi-lip-pin (15,5%). + Thứ bảy, chênh lệch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng. Mức chênh lệch giữa ASEAN 6 và các nước ASEAN 4 thể hiện rõ ở mạng lưới đường cao tốc, đường sắt, hệ thống dây dẫn và đường ống dẫn ga.... Nhóm ASEAN 4 cũng thiếu kết cấu hạ tầng "mềm" (công nghệ thông tin, viễn thông và hệ thống ITC) - điều kiện tối
Tài liệu liên quan