Theo chúng tôi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau, đồng thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hegel đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nói chung, một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến nay. Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng qua các thời đại trước đây, chúng ta tuyệt nhiên không được tô vẽ, không được hiện đại hoá quan điểm của họ
20 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giá trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm của Hegel, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài 4:
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HEGEL
LỜI MỞ ĐẦU
Theo chúng tôi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau, đồng thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hegel đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nói chung, một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến nay. Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng qua các thời đại trước đây, chúng ta tuyệt nhiên không được tô vẽ, không được hiện đại hoá quan điểm của họ. Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi, không được biện hộ một chiều các quan điểm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi những điều kiện của lịch sử. Muốn vậy phải biết phân biệt những gì là giá trị trong di sản triết học với những xuyên tạc hoặc lý giải tuỳ tiện về những “ di sản” đó. Một mặt, khi xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn chế lịch sử những khiếm khuyết sai lầm của nhà tư tưởng đó, phải đặt nó trong điều kiện lịch sử cụ thể để có được những đánh giá khách quan và chính xác nhất. Làm tốt được điều trên đối với hệ thống Triết học Biện Chứng Hegel không phải dễ dàng, bởi vì triết học Hegel không những quá đồ sộ và uyên bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong chính nó không ít những mâu thuẫn, những xu hướng khác nhau. Tuy nhiên, điều đó cũng không thể làm lu mờ giá trị và sức sống mạnh mẽ của triết học biện chứng của ông.
CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TÂY ÂU VÀ CỔ ĐIỂN ĐỨC.
Đặc điểm kinh tế xã hội và đặc điểm triết học ở Tây Âu.
Đặc điểm kinh tế- xã hội Tây Âu thời cận đại.
Trong thời kỳ này( thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị: Cách mạng tư sản Hà Lan, Cách mạng tư sản Anh, Cách mạng tư sản Pháp... Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, nó đặt ra những yêu cầu mơi cho khoa học kỹ thuật phát triển. Đấy là thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu phân ngành mạnh, hình thành các bộ môn khoa học độc lập như toán học, vật lý học, hoá học, sinh học... Đặc trưng của khoa học thời kỳ này là khoa học tự nhiên thực nghiệm, các tri thức khoa học hầu hết là sản phẩm của thực nghiệm, vì vậy thường dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng trong sự trừu tượng, tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển...
Chính những đặc trưng về kinh tế - xã hội và khoa học tự nhiên thời kỳ cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học của thời kỳ này.
Đặc điểm triết học Tây Âu thời cận đại.
Triết học tự nhiên trong thời kỳ cận đại này gắn liền với những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là lý luận cơ học đã thấm đượm phương thức tư duy siêu hình của khoa học tự nhiên. Phương thức tư duy siêu hình đã chi phối những hiểu biết triết học về bản nguyên và bản tính của thế giới. Người ta giải thích mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên bằng các lực tương tác cơ học ( lực hấp dẫn và lực đẩy cơ học) giữa các phần tử. Còn các phần tử vật thể luôn bất biến, cái thay đổi chỉ là không gian và tập hợp của chúng. Trong thời kỳ này tư tưởng chủ yếu là của các nhà triết học theo đường lối duy vật siêu hình. Điển hình là các nhà triết học như: Bêcơn, Hốpxơ, Lamêtơri, Điđrô... Họ đều thừa nhận thế giới vật chất là có trước, vĩnh cửu và vô tận, không do ai sáng tạo ra và không ai có thể tiêu diệt. Vận động gắn liền với vật chất và nhờ có vận động mà giới tự nhiên luôn luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Triết học trong thế kỷ XVII – XVIII ra đời trong điều kiện khoa học tự nhiên được tách rời khỏi triết học và phát triển. Vấn đề đặt ra là làm sao tìm được phương pháp khoa học chung của nhận thức và phải khái quát và hệ thống hoá các khoa học đã tách ra đó. Do đó, nhiệm vụ trọng tâm của triết học cận đại XVII-XVIII là lý luận nhận thức, là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các khoa học. Những vấn đề ấy đã được các nhà tư tưởng thời kỳ này nghiên cứu, họ đã đi tìm các quy luật của lý tính mà khả năng của lý tính được biểu hiện một cách vô hạn Nhưng xét lý tính của thời đại mà các nhà triết học đang sống theo như Ph.Bêcơn thì còn nhiều quan niệm, khái niệm sai lầm. Các nhà triết học đã đi tìm chân lý cơ bản của nhận thức và các phương pháp ấy sẽ dẫn con người đến chân lý vĩnh hằng, đầy đủ, tuyệt đối. Cơ sở của phương pháp ấy được các nhà triết học xem là kinh nghiệm cảm tính(Bêcơn, Hốpxơ, Lôccơ), hoặc là lý tính nó đem lại tri thức logic toán học- diễn dịch không bị quy định bởi kinh nghiệm của con người( Đềcáctơ, Lepsnich, Xponoda...). Cuộc luận chiến giữa các nhà triết học xung quanh việc tìm cơ sở của phương pháp mới chính là cuộc luận chiến giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thời kỳ cận đại. Tuy nhiên, trong thực tế, chủ nghĩa duy lý và phương pháp tương tự của nó luôn thắng thế, nó được sử dụng rộng rãi. Khuynh hướng duy lý của triết học cận đại với phương châm thế tục hoá đầy đủ khoa học, khẳng định không có một uy tín nào được thừa nhận ngoài uy tín của lý tính, đẩy khoa học lên hàng đầu các môn quan trọng của nhân loại, vì nó có khả ngăn giảm bớt sự đói nghèo , có khả năng làm giàu, có khả năng đưa xã hội phát triển ( Bêcơn). Sự phát triển của khoa học bắt tự nhiên lệ thuộc vào con người khi hình thành phương pháp cơ bản của tư duy- phương pháp lý tính thuần tuý. Khuynh hướng trên trong phương pháp hiện đại gọi là phương pháp siêu hình học. Đây là mâu thuẫn bên trong lý luận nhận thức của triết học cận đại và triết học cổ điển Đức đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn này.
Điều kiện kinh tế xã hội Đức thời cận đại và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
Điều kiện kinh tế- xã hội Đức thời cận đại.
Cuối thế kỷ XVIII, nước Đức còn ở trình độ rất lạc hậu vì hai lý do:
Về địa lý đứng ngoài những đường thương mại quốc tế lớn, chủ yếu bấy giờ đang phát triển ở bờ biển Đại Tây Dương (tư bản phát triển ở Anh, Hà Lan, Pháp), trong tình trạng bấy giờ Đức không có điều kiện phát triển ngoại thương.
Trong lịch sử thế kỷ thứ XVI và XVII, các lực lượng tiến bộ ở Đức đã bị đàn áp và tiêu hủy phần lớn, đặc biệt là trong “Chiến tranh nông dân” là cuộc chiến tranh trong đó cải cách tôn giáo của Luther chống phong kiến. Phong trào Luther lúc đầu lôi cuốn nông dân đi với công thương và tiểu phong kiến chống lại phong kiến và Giáo hội. Nhưng kết quả của nó chỉ là sự thất bại của nông dân, và chỉ đi đến sự xóa bỏ một phần quyền lợi Giáo hội, đề cao quyền lực các hoàng thân (Chúa chư hầu) với cải cách của Luther. Nó chỉ là thắng lợi của chế độ hoàng thân dựa vào tiểu phong kiến và lôi cuốn bọn tư sản và tiểu tư sản đầu hàng, còn nông dân thì bị đàn áp hoàn toàn. Sau đó, những hạng tiểu tư sản và tư sản cũng bị đàn áp không ngóc đầu lên được. Chế độ thắng là chế độ phân quyền, các hoàng thân cát cứ ngăn trở kinh tế tư sản phát triển. Qua nửa đầu thế kỷ XVII, lại có chiến tranh 30 năm với sự can thiệp của hầu hết các cường quốc Âu châu, đã tiêu hao gần hết lực lượng của Đức.
Do những nguyên nhân đó, tới thế kỷ XVIII, Đức rất lạc hậu: phong kiến còn phân quyền, nhưng giai cấp tư sản lại được ảnh hưởng tư tưởng giai cấp tư sản Âu Tây nói chung (nhất là Anh, Hà Lan, Pháp). Mức yêu cầu đứng về khái niệm là mức yêu cầu của cách mạng Âu Tây, nhưng lại mâu thuẫn với tình trạng thực tế rất thấp, chỉ đi đến liên minh các chư hầu mở đường cho giai cấp tư sản phát triển phần nào về kinh tế, tham gia hành chính phần nào, nhưng chưa có vấn đề nắm chính quyền.
Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức.
Khái niệm triết học cổ điển Đức là dùng để chỉ sự phát triển của triết học nước Đức cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của triết học hiện đại.
Lý luận về bản thể trong triết học cổ điển Đức đầy những mâu thuẫn. Có duy vật, duy tâm và cả nhị nguyên luận, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng do ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ của Đức, triết học duy tâm vẫn chiếm ưu thế hơn. CanTo – người sáng lập ra triết học cổ điển Đức trong thời kỳ hoạt động khoa học đã xây dựng giả thuyết về sự hình thành của vũ trụ, theo đó thì sự hình thành và tiến hoá của các hệ hành tinh là bắt nguồn từ “ đám mây mù” đầu tiên. Về sau, CanTo chuyển sang hoạt động triết học và triết học của ông là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận thế giới các “ vật tự nó” tồn tại khách quan có thể tác động lên các giác quan của con người, mặt khác ông lại khẳng định các vật mà ta có thể nhận thấy được lại không liên quan đến thế giới “ vật tự nó. Chúng chỉ là những hiện tượng phù hợp với các cảm giác, tri giác do lý tính của con người tạo ra, nghĩa là con người chỉ nhận thức được cái bề ngoài mà không nhận thức được cái bản chất đích thực của sự vật. Hegel lại cho rằng nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội là ý niệm tuyệt đối. Từ điểm xuất phát đó, ông đã dựng lên một hệ thống triết học duy tâm khách quan. Phoiabac- nhà duy vật, vô thần lớn nhất trong lịch sử triết học cận đại lại cho rằng: Thế giới là thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ triết học nào. Cơ sở tồn tại của thế giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên.
Thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển Đức là phép biện chứng. Phép biện chứng khách quan của cổ điển Đức bắt đầu từ CanTo qua Phicto, Selinh và đỉnh cao là Hegel.’
CHƯƠNG II: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HEGEL
Giới thiệu chung về Hegel và triết học Hegel:
Hegel sinh ngày 27.08.1770 tại Stuttgart. Ông rất được cưng chiều trong một gia đình ngoan đạo, có lẽ “bởi vì ông học giỏi”. Mới 3 tuổi đã đi học trường tiếng Đức, lên 5 học trường tiếng Latin. Năm 1788 Hegel bắt đầu học tại chủng viện Tubingen, tại đây ông đã hoàn tất cao học về triết học năm 1790 và 3 năm sau đó, tốt nghiệp về thần học. Năm 1793 Hegel quyết định không đi theo nghiệp tu sĩ và trở thành gia sư tại Bern, để có nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu triết học. Năm 1797 Hegel đã làm gia sư tại Frankfurt. Hegel thực sự tìm thấy hứng khởi với cộng đồng trí thức trong “Hiệp hội các trí tuệ” và ngay trong năm đó ông đã hoàn tất tác phẩm Cương lĩnh hệ thống xưa nhất của chủ nghĩa duy tâm Đức (Das alteste Systemprogramm des Deutschen Idealismus). Năm 1801 Hegel đã về trường Đại học Jena. Những khóa giảng đầu tiên của ông rất ít người tham dự. Tuy vậy Hegel đã được phong giáo sư vào năm 1805. Khi quân đội Napoleon chiếm đóng, ông đã nhanh chóng rời Jena. Năm 1807 ông đảm nhận chức chủ bút tờ Bamberger Zeitung và xem như lần đầu tiên ông thoát khỏi cảnh túng thiếu tài chính kinh niên. Tại đây tác phẩm nền tảng Hiện tượng học Tinh thần của ông ra đời. Năm 1808 Hegel được cử làm hiệu trưởng trường trung học Egidyen tại Nuremberg. Cảm thấy nhàm chán, ông khuyến khích học sinh đặt câu hỏi giữa tiết học và dịch các bài vở của học sinh sang tiếng Hy Lạp cổ. Năm 1811 ông cưới cô Marie von Tucher chỉ vừa tròn 20 tuổi. Năm 1816 Hegel được phong giáo sư tại Đại học Heidelberg, nơi ông cộng tác trong ban biên tập của tờ Niên giám văn học Heidelber. Năm 1817 ông công bố bộ Bách khoa thư các khoa học triết học. Năm 1818, Bộ trưởng Văn hóa Vương quốc Phổ là Von Altenstein đã đích thân mời ông về Đại học Berlin. Cao điểm danh vọng của ông là tước vị Hiệu trưởng Đại học Berlin vào năm 1829 trước khi ông mất năm 1831.
Ông là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng duy tâm. Triết học của Hegel là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối thế kỉ 18 - đầu thế kỉ 19. Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hegel là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hegel gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử - tự nhận thức về bản thân, Thành quả lớn nhất của triết học Hegel là phép biện chứng. Ở Hegel, phép biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hegel vẫn là "người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng" (Mac). Hegel có những đóng góp to lớn trong địa hạt lí luận về nhận thức, trong cuộc đấu tranh chống "thuyết không thể biết" (bất khả tri luận). Bên cạnh đó, hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học Hegel mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính chất cách mạng của triết học này. Quan điểm chính trị của Hegel cũng phản ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với các thế lực phong kiến. Hegel ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội.
Triết học Hegel là một trong những nguồn gốc lí luận trực tiếp của chủ nghĩa Mac. Các tác phẩm chủ yếu: "Hiện tượng học tinh thần" (1807), "Khoa học lôgic" (1812 - 16), "Bách khoa thư về khoa học triết học" (1817, 1830), "Những nguyên lí triết học của pháp luật" (1821). Những thành tựu trong sự nghiệp triết học của Hegel gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội cũng như những đặc điểm của nền triết học cổ điển Đức thời bấy giờ.
Nội dung phép biện chứng duy tâm của Hegel:
Tiền đề:
1.1. Phép biện chứng cổ điển của Heraclit.
Heraclit (540-480 TCN) là nhà triết học có tư tưởng biện chứng điển hình của triết học phương Tây cổ đại. Mà theo đánh giá của Mác-Lênin thì Heraclit là người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng dựa trên lập trường duy vật. Mặc dù sau Heraclit nhiều nhà triết học khác cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng biện chứng của ông, và Hegel cũng đã chịu ảnh hưởng không ít của những tư tưởng biện chứng đó ( điển hình là tư tưởng của Kant - ông tổ của triết học cổ điển Đức) tuy nhiên tư tưởng biện chứng trong triết học của Heraclit vẫn được xem là tiền đề quan trọng nhất cho phép biện chứng duy tâm của Hegel sau này.
Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học mà hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng biện chứng của Heraclit được thể hiện như sau:
Một là: Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo ông thì không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá. Ông nói: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông”; Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới”. Theo quan điểm của Heraclit thì lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật, hiện tượng. Đồng thời lửa cũng là gốc của mọi vận động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa mà thôi.
Hai là: Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong phỏng đoán về vai trò của các mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về “sự trao đổi của những mặt đối lập”, về “sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập”. Ông nói: “cùng một cái ở trong chúng ta – sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này biến đổi cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành cái này...” Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đổi lập. Lênin viết: “ Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó là thực chất của phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit”. Nhận định của Lê-nin đã chứng minh cho quan điểm và đóng góp của Heraclit trong tư tưởng này.
Ba là: Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan, là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học thuyết của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Người nào càng tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai nhưng cơ bản là đúng. Chính những tư tưởng biện chứng sơ khai của Heraclit sau này đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức mà điển hình là Hegel kế thừa, phát triển và được các nhà sáng lập triết học Mac đánh giá cao.
1.2. Tư tưởng triết học duy tâm tại Đức - nguồn gốc lịch sử của duy tâm tuyệt đối Hegel.
Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là kết quả của quá trình xây dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức mà khởi đầu là Cantơ (Kant). Quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp, với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong - hàng hóa là sản sinh ra trong một quá trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài người - cái thế giới hàng hóa - là do con người tạo ra.
Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính chất khách quan.
Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.
Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.
Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái “tôi” và cái “không phải là tôi”. Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định); và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy định).
Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.
Với Schelling, ph