Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bắt đầu có sự phân cực, cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Cùng với đó là sự hình thành và phát triển của các nghành mới. Logistics- một nghành không mới ở các nước khác trên thế giới nhưng nó lại mới bắt đầu phát triển ở Việt Nam khoảng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên sự nhận thức của các Doanh nghiệp về lĩnh vực này ở nước ta còn rất hạn chế. Do đó những tiềm năng phát triển của nó vẫn chưa được các doanh nghiệp khai thác hết và có nhiều vấn đề cần đề cập.
Nói đến logistics người ta không thể không nói đến vai trò vô cùng quan trọng của hoạt động này trong các cuộc chiến tranh kéo dài theo lịch sử loài nguời. Nhưng có lẽ tiêu biểu chúng ta có thể kể đến Alexander đại đế, người đã từng tuyên bố trong bất kỳ thất bại của ông thì người phụ trách logistics sẽ là người hỏi tội đầu tiên. Còn Napoleon hẳn đã ngấm bài học thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược ngước nga mà ở đó thất bại duy nhất là do logistics. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước, thì vai trò của tổng cục hậu cần và đường mòn Hồ Chí Minh là cực kì quan trọng đến chiến thắng 30-4. chính nước Mỹ cũng phải thừa nhận họ đã thất bại vì không ngăn được dòng chảy lien tục con người, lương thực phẩm và vũ khí trên đường mòn Hồ Chí Minh. Đến thời bình, logistics đã phần nào bị lãng quên và chỉ đến khi chúng ta hội nhập thì vai trò của nó mới được đưa lên một giai đoạn mới. Các Doanh nghiệp Việt Nam đã cảm nhận sức nóng của đối thủ nước ngoài phả sát ngay gáy và logistics sẽ được coi là công cụ quan trọng giúp họ tăng khả năng cạnh tranh một cách bền vững nhất.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 4038 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệu ứng Bullwhip trong chuỗi cung ứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI
BÀI LUẬN
ĐỀ TÀI: “Hiệu ứng Bullwhip trong chuỗi cung ứng”
Nhóm thực hiện: Nhóm I
GVHD : Thầy Nguyễn Vịnh
DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN
Đoàn Ngọc Cảnh
Thái Thị Dung
Nguyễn Thị Phượng
Nguyễn Thị Hồng Phượng
Nguyễn Thị Quyên
Trịnh Thị Hà Thiện
Đà Nẵng, Tháng 11 năm 2009
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bắt đầu có sự phân cực, cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Cùng với đó là sự hình thành và phát triển của các nghành mới. Logistics- một nghành không mới ở các nước khác trên thế giới nhưng nó lại mới bắt đầu phát triển ở Việt Nam khoảng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên sự nhận thức của các Doanh nghiệp về lĩnh vực này ở nước ta còn rất hạn chế. Do đó những tiềm năng phát triển của nó vẫn chưa được các doanh nghiệp khai thác hết và có nhiều vấn đề cần đề cập.
Nói đến logistics người ta không thể không nói đến vai trò vô cùng quan trọng của hoạt động này trong các cuộc chiến tranh kéo dài theo lịch sử loài nguời. Nhưng có lẽ tiêu biểu chúng ta có thể kể đến Alexander đại đế, người đã từng tuyên bố trong bất kỳ thất bại của ông thì người phụ trách logistics sẽ là người hỏi tội đầu tiên. Còn Napoleon hẳn đã ngấm bài học thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược ngước nga mà ở đó thất bại duy nhất là do logistics. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước, thì vai trò của tổng cục hậu cần và đường mòn Hồ Chí Minh là cực kì quan trọng đến chiến thắng 30-4. chính nước Mỹ cũng phải thừa nhận họ đã thất bại vì không ngăn được dòng chảy lien tục con người, lương thực phẩm và vũ khí trên đường mòn Hồ Chí Minh. Đến thời bình, logistics đã phần nào bị lãng quên và chỉ đến khi chúng ta hội nhập thì vai trò của nó mới được đưa lên một giai đoạn mới. Các Doanh nghiệp Việt Nam đã cảm nhận sức nóng của đối thủ nước ngoài phả sát ngay gáy và logistics sẽ được coi là công cụ quan trọng giúp họ tăng khả năng cạnh tranh một cách bền vững nhất.
Để có một sự hiểu biết đầy đủ về logistics, chỉ những bài học trên lớp thôi chưa đủ mà chúng ta cần phải trải qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu lâu dài. Trong giới hạn cho phép của bài luận này nhóm chúng tôi chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản của logistics để các bạn có thể hiểu phần nào về nó.
Logistics là một thuật ngữ gốc Hilap (logistikos)- phản ánh một môn khoa học nghiên cứu tính quy luật của các hoạt đông cung ứng và đảm bảo các yếu tố tổ chức, vật chất và kỹ thuật để cho quá trình chính được tiến hành đúng mục tiêu (theo bài giảng Logistics).
Quản trị Logistics là phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hang hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hang. Hoạt động của quản trị Logistics bao gồm quản trị vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu, quản lí đôi tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị Logistics là chức năng tổng hợp, kết hợp và tôi ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như Marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin. Như vậy,quản trị Logistics là một bộ phận tiếp cận của quản trị kinh doanh, trong đó mỗi doanh nghiệp cần nắm vững và tác động vào toàn bộ các hoạt động xuyên suốt từ khai thác nguyên liệu cho tới các dịch vụ cho khách hàng cuối cùng. Đối tượng của hoạt động quản lí của một doanh nghiệp vượt ra khỏi phạm vi hoạt động của mình, mà là hoạt động của tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân liên quan tới toàn bộ cả quá trình. Việc nghiên cứu một cách đầy đủ, nắm vững các yếu tố tác động đến các hoạt động trong chuỗi cung ứng sẽ giúp nhà quản trị đưa ra các biện báp đối phó kịp thời giúp cho hoạt động của chuỗi cung ứng diến ra một cách hiệu quả.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Một thay đổi nhỏ trong nhu cầu ở khâu bên dưới của chuỗi cung ứng có thể gây ra một sự thay đổi rất lớn ở khâu bên trên của chuỗi. Hiệu ứng này gọi là hiệu ứng Bullwhip (hiệu ứng cái roi da). Nói cách khác, khi có nhiều cấp độ với chuỗi cung ứng - nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối, khách hàng đại lí và người sử dụng - một lần nữa lên các dây chuyền, càng ít đoán trước được số lượng đơn đặt hàng. Hậu quả bullwhip thường chảy lên các dây chuyền cung ứng, bắt đầu với các nhà bán lẻ, sỉ, phân phối, nhà sản xuất và sau đó các nhà cung cấp nguyên vật liệu. Hiệu ứng này có thể được quan sát thấy thông qua các dây chuyền cung cấp hầu hết trên một số ngành công nghiệp; nó xảy ra vì nhu cầu đối với hàng hóa là dựa trên dự báo nhu cầu từ các công ty, thay vì nhu cầu tiêu dùng thực tế.
Một ví dụ điển hình của hiệu ứng này là tã cho em bé. Cách đây không lâu, một nhà điều hành logistics ở công ty P&G đã tiến hành nghiên cứu cách thức đặt hàng đối với một trong những sản phẩm bán chạy của công ty, Tã Lót Pampers. Trong khi doanh số bán hàng tại các cửa hàng bán lẻ có biến động nhưng mức độ này không quá lớn. Nhưng khi kiểm tra biến động đơn hàng tại nhà phân phối, ông phát hiện ra mức độ biến động đã lớn hơn. Thậm chí khi kiểm tra việc đặt hàng nguyên liệu của P&G với nhà cung cấpthì bây giờ mức độ biến động còn lớn hơn nhiều.In other words, when there are multiple levels to supply chain - supplier, manufacturer, distributor, OEM customer and user - the further up the chain, the less predictable are the order quantities.
Hiệu ứng Bullwhip được phát triển gốc gác sâu xa bởi tiến sỹ Ray Forrester (MIT) vào năm 1961 trong nghiên cứu có tên Industrial Dynamics và do đó người ta còn gọi hiệu ứng Bullwhip là hiệu ứng Forrester (TS Forrester sau này rất nổi tiếng với mô hình System Dynamics được ứng dụng rộng rãi trong phân tích và hoạch định kinh doanh, chiến lược kinh doanh, các nghiên cứu của ông là nền tảng cho các khái niệm phát triển sau nay như Strategy Dynamics, Business Dynamics,..). Tuy nhiên Bullwhip Effect chỉ được phát triển một cách toàn diện cũng như gắn với chuỗi cung ứng bởi GS Hau Lee. Từ đó người ta mới nhìn nhận thực sự vai trò và tác động của hiệu ứng này. Cùng gắn với Bullwhip Effect trường MIT đã phát triển một trò chơi giả lập nhằm giúp người chơi hiểu rõ hơn vai trò và tác động của Bullwhip có tên là Beer Game.
Qua quá trình học tập, tìm hiểu các nguồn tài liệu khác nhau, nhóm chúng tôi xin viết bài luận đề tài: “ Hiệu ứng Bullwhip trong chuỗi cung ứng” với mong muốn phần nào giúp các bạn hiểu rõ hơn về nguyên nhân, sự tác động của hiệu ứng này cũng như những giải pháp được áp dụng nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của nó trong hoạt động của chuỗi cung ứng.
Nội dung của bài luận gồm ba phần chính:
Nguyên nhân gây ra hiệu ứng Bullwhip.
Những hậu quả của hiệu ứng Bullwhip trong chuỗi cung ứng.
Những giải pháp hạn chế sự tác động của hiệu ứng Bullwhip.
NỘI DUNG
Nguyên nhân của hiệu ứng Bullwhip.
Cập nhật, dự báo nhu cầu bị lỗi
Mỗi công ty trong chuỗi cung ứng thường thực hiện việc dự báo sản phẩm nhằm giúp việc lên kế hoạch sản xuất, hoạch định nguồn lực, kiểm soát tồn kho và hoạch định nguyên vật liệu. Dự báo thường dựa trên dữ liệu lịch sử đơn hàng của khách hàng trực tiếp. Mỗi khi có đơn hàng từ đối tác downstream- hạ nguồn (như nhà bán lẻ, bán sỉ, sản xuất..) đặt một đơn hàng thì các nhà quản lý upstream- thượng nguồn (như nhà bán sỉ, sản xuất, cung cấp..) sẽ coi thông tin đó như là tín hiệu về tương lại của nhu cầu. Dựa trên tín hiệu ấy nhà quản lý upstream sẽ điều chính dự báo nhu cầu của mình và tiếp theo họ dùng thông tin ấy để đặt hàng cho nhà cung cấp (thành phẩm, nguyên vật liệu ) của mình. Chính việc xử lý thông tin/tín hiệu nhu cầu chính là nhân tố chủ chốt gây ra hiệu ứng bullwhip. Khi các công ty nhập sản phẩm mới vào thị trường, họ ước tính nhu cầu dựa trên điều kiện thị trường hiện tại. Hầu hết các công ty theo thứ tự trong chuỗi thường đặt hàng dây chuyền lên trên cao hơn so với nhu cầu từ khách hàng thực tế, cố gắng ngăn chặn tình trạng thiếu và mất doanh thu của hàng hoá. Điều này sẽ làm lượng hàng tồn kho biến động khi nhu cầu thị trường tăng hoặc giảm. Khi nhu cầu tăng,các công ty gần nhất với người tiêu dung (downstream) sẽ tăng hàng tồn kho để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Khi nhu cầu giảm xuống,những công ty này sẽ giảm hàng tồn kho,nhưng lại khuyếch đại kiểm kê lên các công ty (upstream) trong dây chuyền cung ứng.
Một hành vi có tác động chính là đặt hàng tồn kho quá nhiều khi nhu cầu tiêu dùng đã giảm. Các nhà bán lẻ có thể nâng lên mức hàng tồn kho của họ trong khi hàng hóa không thể được bán một cách nhanh chóng. Điều này tạo ra lượng hàng tồn kho quá lớn đói với từng công ty chuỗi cung ứng.
Nguyên nhân chính của các hoạt động dẫn đến hiệu ứng bullwhip đến từ việc dự báo nhu cầu cá nhân từ mỗi công ty trong chuỗi cung ứng. Điều này làm tăng nhu cầu từ các công ty trong chuỗi cung ứng, nhưng không phải là người tiêu dùng thực tế-những người sẽ mua hàng hoá. Thiếu sự giao tiếp, trao đổi thông tin cũng là nguyên nhân phổ biến; công ty có thể không cung cấp thông tin lên các dây chuyền cung ứng về điều kiện thị trường hiện tại, gây ra tình trạng dự đoán sai nhu cầu và các cấp trong chuỗi sẽ không dự trữ đúng lượng hàng tồn kho cần thiết.
Đơn đặt hàng theo gói/lô
Trong chuỗi cung ứng, mỗi công ty đặt hàng với đối tác của mình đều sử dụng một vài mô hình kiểm soát tồn kho. Khi nhu cầu đến, tồn kho sẽ giảm nhưng công ty có thể không đặt hàng với nhà cung cấp ngay lập tức. Mà họ thường gộp hoặc gom các nhu cầu lại rồi mới đặt hàng. Có hai hình thức đặt hàng theo gói: đặt hàng định kỳ và đặt hàng theo hình thức đẩy (push order).
Thay vì đặt hàng liên tục thường xuyên thì các công ty lại đặt hàng theo tuần/hoặc hai tuần thậm chí hàng tháng. Có nhiều lý do phổ biến để giải thích cho mô hình dự trữ dựa trên đặt hàng theo chu kỳ. Thường thì nhà cung cấp không thể xử lý các đơn hàng liên tục thường xuyên vì yếu tố thời gian và chi phí xử lý đơn hàng kiểu ấy quá lớn. Một công ty có những sản phẩm ít bán chạy sẽ thường đặt hàng theo tháng nhiều hơn. Điều này sẽ giảm được các chi phí liên quan và hạn chế được tình trạng đọng hàng ở các công ty này.
Nếu một công ty đặt hàng mỗi tháng từ nhà cung cấp của mình, nhà cung cấp này sẽ gặp tình trạng đơn hàng thất thường. Vì đơn hàng có thể rất cao vào một thời điểm trong tháng trong khi cả tháng lại không có đơn hàng. Và điều này cũng góp phần gây ra hiệu ứng Bullwhip.
Một trở ngại lớn và phổ biến khác đối với một công ty muốn đặt hàng thường xuyên chính là tính kinh tế của vận tải. Vì vậy các công ty sẽ cố gắng tiết kiệm những chi phí do phải vận chuyển nhiều lần bằng cách gộp các đơn hàng và đặt hàng một lượt, tiến hành vận chuyển với khối lượng lớn.
Trong mô hình đặt hàng đẩy (push order), một công ty có thể trải qua tình trạng tăng đột biến thường xuyên về nhu cầu. Công ty này có những đơn hàng “đẩy” từ khách hàng của mình định kỳ bởi vì người bán hàng thường được đánh giá định kỳ theo quý hoặc năm, điều này làm phát sinh tình trạng đơn hàng tăng đột biến cuối tháng hoặc cuối năm trong khi những thời điểm khác có thể đơn đặt hàng rất ít. Nhân viên bán hàng thường hoàn thành “hạn ngạch bán hàng” bằng cách mượn các đơn hàng của kỳ kế tiếp. Như vậy những đơn đặt hàng từ nhân viên bán hàng lên các công ty phía trên của chuỗi không phải là những đơn hàng tại thời điểm hiện tại. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiến hành sản xuất và dự trữ của các công ty phía trên.
Khi một công ty đối diện với các đơn hàng định kỳ từ khách hàng thì cũng là lúc hiệu ứng bullwhip xuất hiện. Nếu tất các các chu kỳ đơn hàng được phân bổ đều tại các thời điểm hay suốt một tuần thì hiệu ứng bullwhip sẽ được giảm thiểu.
Biến động giá cả
Phần lớn các giao dịch giữa nhà sản xuất và nhà phân phối trong ngành tạp hóa (bán lẻ) được thực hiện dưới hình thức mua kỳ hạn (forward buy), theo đó các sản phẩm được mua trước khi có nhu cầu, thường do mức giá hấp dẫn của nhà cung cấp chào bán.Hình thức mua có kì hạn thường do sự biến động giá cả trên thị trường. Nhà sản xuất và phân phối định kỳ có chương trình khuyến mãi đặc biệt như chiết khầu giá, chiết khấu theo số lượng... Tất cả chương trình khuyến mại này dẫn tới sự biến động giá cả. Hơn nữa, nhà sản xuất thường chào mời những hợp đồng thương mại hấp dẫn (như chiết khấu đặc biệt, ưu đãi giá, ưu đãi thanh toán) cho nhà phân phối và bán sỉ, một hình thức gián tiếp của chiết khấu giá.Những ưu đãi về giá này đã khiến những khách hàng (các công ty trong chuỗi cung ứng) tìm cách mua hàng với khối lượng lớn để được hưởng những ưu đãi đó. Và thế là khách hàng mua hàng với số lượng lớn không hề phản ánh nhu cầu thực sự tại thời điểm đó; họ mua hàng rồi chỉ để dự trữ cho tương lai.Và khách hàng chỉ mua hàng sau đó khi mà họ giải quyết hết lượng tồn kho của mình mà thôi. Kết quả rõ ràng là mô hình mua hàng của họ không phản ánh thực mô hình tiêu thụ và mức biến động trong mua hàng theo số lượng lớn sẽ lớn hơn nhiều so với biến động tiêu thụ.Hiệu ứng bullwhip lại xuất hiện. Như vậy các đối tượng trong chuỗi đã dự trữ một lượng rất lớn hàng hóa trong khi nhu cầu thực tế lại không như vậy.
Cứ mỗi khi mô hình định giá cao-thấp xuất hiện thì hình thức mua hàng có kì hạn là một quyết định hợp lý. Nếu chi phí của dự trữ hàng tồn kho thấp hơn mức độ khác biệt về giá thì mua hàng kỳ hạn là quyết định khá hợp lý. Như vậy các khách hàng sẽ hưởng được một phần lợi nhuận rất lớn do giá mua giảm mà những chi phí cho việc dự trữ tăng thêm là không đáng kể. Có một thực tế là nhiều công ty lại phải chịu tác động tiêu cực từ mô hình định giá này. Theo đó thì các công ty sẽ không có kế hoạch sản xuât ổn định, phải thường xuyên dự trữ hàng đề phòng, các chi phí liên quan đến dự trữ, vận chuyển, hỏng hóc tăng lên.
Trò chơi hạn chế và thiếu hụt
Khi nhu cầu vượt quá khả năng cung cấp, nghĩa là nhà sản xuất đang hạn chế sản phẩm của mình đến khách hàng. Theo nghĩa đó, nhà sản xuất sẽ phân bổ số lượng tỷ lệ theo số lượng đã đặt hàng. Ví dụ, nếu tổng cung chỉ bằng 50% tổng cầu, thì khách hàng chỉ nhận được 50% số lượng mà họ đã đặt hàng. Và nếu biết nhà sản xuất sẽ hạn chế khi sản phẩm bị thiếu hụt, thì khách hàng sẽ phóng đại nhu cầu thự sự của mình lên khi họ đặt hàng. Khi nhu cầu giảm xuống, đơn hàng sẽ bất ngờ bị các khách hàng hủy bỏ. Tác động của “trò chơi” này là đơn hàng của khách hàng phản ánh khôngchính xác nhu cầu thực. Hiện tượng này xuất hiện khá phổ biến. Đơn hàng tăng vọt, nhưng không phải do tiêu thụ tăng mà do dự đoán. Khách hàng có thể đặt hàng gấp đôi thậm chí nhiều hơn với nhiều nhà cung cấp khác nhau và chính thức mua từ nhà cung cấp đầu tiên có thể giao hàng sau đó hủy bỏ các đơn hàng trùng lắp còn lại.
2. Hậu quả của hiệu ứng Bullwhip trong chuỗi cung ứng
Vào những năm 1980, nhiều lần ngành công nghiệp máy tính rơi vào tình trạng thiếu hụt DRAM. Đơn hàng tăng vọt, nhưng ko phải do tiêu thụ tăng mà do dự đoán. Khách hàng đặt hàng gấp đôi với nhiều nhà cung cấp khác nhau và chính thức mua từ nhà cung cấp đầu tiên có thể giao hàng sau đó hủy bỏ các đơn hàng trùng lắp còn lại. Do ảnh hưởng của hiệu ứng này, hàng tồn kho có thể nhanh chóng chuyển từ tình trạng thiếu hàng sang thừa hàng. Điều này gây ra bởi tính tiếp nối của các đơn hàng khi có sự chậm trễ trong việc đáp ứng yêu cầu khách hàng, tính phóng đại và nhiễu loạn của thông tin khi được chuyển tải qua nhiều chặng nối tiếp.
Hiệu ứng BULLWHIP đã làm cho:
- Dự báo kém làm cho việc tồn kho quá mức, năng lực dư thừa hoặc thiếu hụt. Điều này làm phát sinh các chi phi quản lí hàng tồn kho.
- Dịch vụ khách hàng tệ do sản phẩm không có sẵn hoặc do tồn kho dự trữ quá lâu. Trong tình trạng hàng hóa không có sẵn những yêu cầu về số lượng cũng như thời gian giao hàng không được đáp ứng, tạo nên sự không hài lòng của khách hàng.Điều này dẫn đến việc uy tín, hình ảnh của công ty giảm sút, ảnh hưỏng lớn đến doanh số bán hàng và doanh thu trong tương lai.
- Kế hoạch sản xuất không ổn định và chi phí tốn kém từ những hành động sửa chữa (như dùng vận tải chi phí cao, làm việc ngoài giờ..). Việc dự báo nhu cầu bị sai khiến cho kế hóạch sản xuất thiếu chính xác và không ổn định. Nhà sản xuất có thể sản xuất quá nhiều hoặc thiếu so với nhu cầu. Những kế hoạch về việc mua nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất, phân phối sẽ không tối ưu và phát sinh các chi phí liên quan. Bullwhip tạo lịch trình sản xuất không ổn định. Những lịch trình sản xuất không ổn định là nguyên nhân gây ra một loạt các chi phí không cần thiết trong dây chuyền cung cấp. Công ty đã đầu tư vào năng lực bổ sung để đáp ứng các nhu cầu lúc cao đột biến. Khả năng này sau đó dưới mức sử dụng khi nhu cầu giảm. Đơn vị chi phí lao động tăng lên trong thời kỳ nhu cầu thấp, những chi phí cho hợp đồng tăng lên trong các thời kỳ nhu cầu cao. Mặt khác những sai sót trong qúa trình thực hiện buộc doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí khắc phục, làm tăng chi phí và giảm doanh thu
3.Giải pháp hạn chế hiệu ứng bullwhip.
Những giải pháp thường sử dụng để giảm thiểu tác động Bullwhip.
Danh mục đầu tư quy hoạch.
Mục tiêu của kế hoạch hóa danh mục đầu tư là liên quan đến một hoặc hai nhà cung cấp trong hợp đồng dài hạn để giải quyết phần lớn các nhu cầu dự kiến. Nhu cầu còn lại được thực hiện bởi một cơ sở nhỏ hơn của nhà cung cấp với hợp đồng ngắn hạn- những người có thể đáp ứng một cách nhanh chóng khi thay đổi trong nhu cầu. Các nhà cung cấp hợp đồng ngắn hạn nhận được phí bảo hiểm, bởi vì họ đang mang rủi ro trong tình huống này. Tuy vậy, mối quan hệ ngắn hạn hợp đồng với các nhà cung cấp cho phép các nhà sản xuất điều chỉnh khi có sự thay đổi trong nhu cầu. Khi nhu cầu tăng đột biến hoặc có thể thay đổi thì nhà sản xuất rất cần đến một số cơ sở nhỏ hơn của nhà cung cấp. Vì thế đơn giá cho cơ sở nhỏ hơi cao nhưng lại đựoc đảm bảo.
Hoãn Hoãn là một khái niệm mà trong đó các nhà sản xuất chậm trễ hoàn tất, càng nhiều càng tốt.Hoãn là phương pháp thành công nhất trong một môi trường mà không thể dự báo chính xác nhu cầu của người tiêu dùng.
Nhà sản xuất sẽ sản xuất thành những sản phẩm dở dang, có thể là trì hoãn bước cuối cùng hoặc các bước trong một sản phẩm hoàn thành. Và sẽ đợi cho đền khi chắc chắn kiểm soát được đơn đặt hàng cụ thể khi đó sẽ hoàn tất sản phẩm. Như vậy sẽ hạn chế được việc tồn kho qua mức do các đơn đặt hàng ảo tạo ra.
Nâng cao hiểu quả của hệ thống thông tin.
Để có một hệ thống thông tin hoạt động hiệu quả trước tiên cần có dự chia sẽ thông tin giữa các thành phần tong chuỗi cung ứng. Chia sẻ thông tin liên quan đến việc các thành viên trong chuỗi cung cấp tích cực tham gia vào trao đổi thông tin cuối cùng nhu cầu của khách hàng. Chia sẻ thông tin tốt nhất là khai thác trong một môi trường nơi mà nhu cầu của khách hàng là tương đối ổn định. Đây cũng là cách tiếp cận chuyên sâu nhất vì mức độ chia sẻ thông tin và phối hợp giữa các thành viên tham gia chuỗi cung ứng. Việc giảm thiểu hoặc loại bỏ những yếu tố tạo nên sự chậm trễ của thông tin cũng rất cần đến việc đầu tư cần thiết trong công nghệ thông tin và tạo ra một văn hoá doanh nghiệp của tính linh hoạt và tập trung vào nhu cầu của khách hàng. Một điều kiện tiên quyết là tất cả các thành viên của một chuỗi cung ứng phải nhận ra rằng họ có thể đạt được nhiều hơn khi có sự hợp tác đáng tin cậy và chia sẽ thông tin.
Một khi các thành viên của một nhóm trong chuỗi cung ứng đã quyết định rằng mỗi thành viên có thể cải thiện hoạt động bằng cách chia sẻ thông tin, nhóm có thể thảo luận về khả năng hiển thị thông tin như thế nào, thông tin chính xác sẽ giúp làm giảm tác dụng bullwhip. Các thành viên của chuỗi cung ứng có thể sử dụng thông tin cuối cùng nhu cầu của khách hàng để thông suốt hơn chức năng hoạch định kế hoạch của mỗi cá nhân, tối ưu hóa các chuỗi cung cấp toàn bộ. Các nhà bán lẻ có thể chia sẻ dữ liệu với các thành viên thượng nguồn để cho các nhóm này có thể có một sự hiểu biết rõ ràng về nhữn