Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi của nhà nước, khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước thì nước đó rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách.
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nề kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nổi bật nhất trong khoảng thời gian vừa qqua là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu. Nguy cơ Hy Lạp vỡ nợ là rất cao. Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp có thể lây lan đến một loạt các nước khác trong EU có mức nợ quốc gia cao tương đương với Hy Lạp như Ý, bồ Đào Nha, Areland, và Tây Ban Nha. Cuộc khủng hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Sau khi gia nhập WTO(2007), kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 3432 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ VẠN XUÂN
KHOA KINH TẾ
BÀI TIỂU LUẬN
KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM
Học phần: Tài chính-Tiền tệ
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thảo
Nhóm thực hiện: Nhóm1_Lớp DHKT2:
Bùi Thị Hà
Hoàng Thị Hồng Thảo
Trần Thị Thuỷ
Trương Quỳnh Ngân
Nguyễn Thị Trang
Mai Thị Thanh Vân
Thái Thị Khánh Hoà
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Cấu trúc đề tài:
Lý thuyết chung về thu-chi ngan sách nà nước
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
1.3. Thu và chi của ngân sách nhà nước
Khủng hoảng nợ công Châu Âu
Diễn biến của cuộc khủng hoảng
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng.
Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với Việt Nam.
Tình trạng thu-chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
Những bài học kinh nghiệm.
Một số gải pháp, kiến ngị.
KẾT LUẬN
Lý do chọn đề tài
Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi của nhà nước, khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước thì nước đó rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách.
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nề kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nổi bật nhất trong khoảng thời gian vừa qqua là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu. Nguy cơ Hy Lạp vỡ nợ là rất cao. Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp có thể lây lan đến một loạt các nước khác trong EU có mức nợ quốc gia cao tương đương với Hy Lạp như Ý, bồ Đào Nha, Areland, và Tây Ban Nha. Cuộc khủng hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Sau khi gia nhập WTO(2007), kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
Những vấn đề chung về thu - chi ngân sách Nhà nước:
1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được các cơ quan có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
1.2 Vai trò của ngân sách nhà nước.
1.2.1 Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế)
Trong lĩnh vực kinh tế Nhà nước định hướng việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ vừa kích thích và vừa tạo sức ép với doanh nghiệp nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.3 Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội)
Điều tiết thu nhập và góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Như đánh thuế thu nhập, thuế lợi tức vào những người có thu nhập cao và trợ cấp cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, các khoản chi phí để thực hiên chính sách dân số, chính sách việc làm,các chương trình quốc gia lớn về chống mù chữ,chống dịch bệnh…
1.2.3 Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường)
Như điều tiết giả cả, giữ ổn định thị trường, chống lạm phát.
Chính phủ sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách cắt giảm chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác có thể giảm thuế đầu tư, kích thích đầu tư phát triển để tăng cung. Ngoài ra chính phủ còn phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước cũng góp phần to lớn về việc giảm tốc độ lạm phát trong nền kính tế quốc dân.
1.3 Thu và chi của ngân sách Nhà nước.
1.3.1 Thu ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách Nhà nươc là những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Nổi bật của thu ngân sách Nhà nước là cơ cấu các khoản thu của ngân sách Nhà nước gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước.Thu ngân sách Nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Đặc trưng của thu ngân sách Nhà nước chính là luôn gắn chặt với quá trình kinh tế và các phạm trù chính trị.
1.3.2 Chi của ngân sách Nhà nước.
Chi của ngân sách Nhà nước là việc phân phối và việc sử dụng quỹ tập trung tiền tệ lớn nhất của Nhà nước để thực hiên các chức năng Nhà nước về mọi mặt và theo những qui tắc nhất định.
Những đặc thù riêng của chi ngân sách Nhà nước:
Chi ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với các nhiệm vụ kinh tế chính trị về xã hội, mà chính phủ đảm nhận trước mỗi quốc gia.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sach Nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện về hiệu quả kinh tế trực tiếp và các mặt xã hội chính trị, ngoại giao.
Các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp.
1.3.3 Bội chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách Nhà nước là tình trạng tổng chi tiêu ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách Nhà nước.
Mức bội chi NSNN = Tổng chi NSNN – Thu thường xuyên
Các nguyên nhân gây thâm hụt ngân sách Nhà nước: tham nhũng, quản lý kém, cơ cấu chi bất hợp lý hiệu quả thấp, hệ thống không hiệu quả và các nguyên nhán khách quan như thiên tai lũ lụt, hạn hán,khủng hoảng kinh tế…
Một số cách bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước như: phát hành tiền giấy,sử dụng dự trữ ngoai tệ, giảm chi, tăng thuế, thực hiện tốt công tác quản lý, chống tham nhũng…
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
2.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Châu Âu.
Trong những tuần lễ đầu tháng 7, thị trường tài chính quốc tế gặp nhiều cú sốc liên quan đến vấn đề nợ nần của các nước châu Âu và Mỹ. Đâu đó, người ta đang nhắc lại quan điểm rằng kinh tế thế giới đang bắt đầu đi vào khủng hoảng nợ công toàn cầu.Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể.
2.1.1. Hy Lạp, nơi hình thành khủng hoảng nợ công.
Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công chủ yếu xảy ra ở Hy Lạp khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3.47% vào tháng 01/2010, lên 9.73% tháng 07/2010, và nhảy vọt lên 26.65%/năm ở tháng 07/2011.
Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực eurozone và IMF đã thông qua khoản vay 110 tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt.
Hơn một năm sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỉ euro, Hy Lạp vẫn tiếp tục ở trong nguy cơ vỡ nợ. Gần đây Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ước tính nợ quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến 172% GDP (so với mức khoảng 120% lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt ngân sách của nước này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới. (Nguồn:Toàn cảnh khủng hoảng nợ công châu Âu )
Các nhà lãnh đạo châu Âu đang kéo dài cuộc tranh luận về chuyện chọn lựa phương án bởi vì các bên đều đang cố gắng lựa chọn một phương án có lợi cho mình. Chẳng hạn, một trong những đề xuất của Pháp (và được Đức ủng hộ) là các chủ nợ tư nhân có thể đảo nợ, biến khoảng 90% các khoản nợ sắp đáo hạn thành các khoản nợ mới kỳ hạn năm năm.
Một đề xuất khác phức tạp hơn là Hy Lạp trả một phần các khoản nợ bằng tiền mặt (khoảng 30%), phần còn lại thì được xem như là đầu tư lại vào trái phiếu kỳ hạn 30 năm của Hy Lạp. Những đề xuất kéo dài thời hạn nợ hay đảo nợ kiểu này có thể khiến các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như S&P hạ bậc tín nhiệm của Hy Lạp xuống hạng vỡ nợ vì những giải pháp như vậy khiến chủ nợ nhận được ít tiền hơn đáng kể so với các khoản cho vay ban đầu.
Một số quan chức các chính phủ châu Âu đang xem xét tới khả năng lựa chọn các đề xuất cho phép Hy Lạp “vỡ nợ tạm thời”. Những giải pháp này có thể được gói ghém sao cho dù có thể khiến Hy Lạp rơi vào vỡ nợ tạm thời nhưng sẽ không đủ để tạo ra một “sự kiện tín dụng”, nghĩa là không đủ để cấu thành lý do khiến các nhà phát hành các hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS-credit default swaps) phải tiến hành chi trả, như vậy giảm bớt tổn thất đối với các định chế tài chính.
Nhưng phía Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) lại không muốn Hy Lạp bị hạ xếp hạng tín nhiệm xuống khu vực vỡ nợ. ECB lập luận rằng điều đó có thể phát ra tín hiệu xấu về độ tin cậy của các trái phiếu do chính phủ châu Âu khác phát hành, đồng thời nếu trái phiếu chính phủ Hy Lạp bị xếp vào hạng vỡ nợ thì sẽ hạn chế khả năng ECB chấp nhận các trái phiếu của Hy Lạp làm tài sản cầm cố trong trường hợp hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng nước này. Điều đó đồng nghĩa hệ thống ngân hàng Hy Lạp gặp nguy cơ thiếu thanh khoản và có thể sụp đổ vì Hy Lạp không thể tự in tiền ra.
Và cho dù Hy Lạp có nhận được tiền tài trợ mới, được giãn nợ sau cuộc thảo luận lần này của các quan chức EU (21-7) thì cũng không có nghĩa là Hy Lạp có thể tránh được chuyện bị các tổ chức xếp hạng tín nhiệm dán nhãn “vỡ nợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc mối lo khủng hoảng nợ sẽ tiếp tục có thể tác động xấu đến thị trường cổ phiếu, nhất là các cổ phiếu ngân hàng, và trái phiếu.
Thật khó dự đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu Hy Lạp bị xếp hạng vỡ nợ và do đó, nhiều nhà đầu tư lại quay sang mua vàng và bán đi các trái phiếu chính phủ có vấn đề khác như Ý. Điều này không những chỉ đẩy giá vàng tăng mà còn đang tạo ra một hiệu ứng lây lan có thể khiến Ý trở thành nạn nhân mới của cuộc khủng hoảng nợ.
2.1.2. Ý: điểm lây lan mới của khủng hoảng.
Sau Hy Lạp, Ý cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng như báo chí. Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Ý đột nhiên được thị trường đẩy lên quá nhanh. Cụ thể là đợt đấu giá 1,25 tỉ euro trái phiếu thời hạn năm năm gần đây của Ý đã có lợi suất trung bình là 4,93%, cao hơn nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị trường đang đánh giá rủi ro vỡ nợ của Ý đã tăng lên đáng kể.
Việc lãi suất trái phiếu chính phủ Ý tăng cao do nhà đầu tư lo ngại diễn biến phức tạp về nợ công có thể tạo ra một hiệu ứng biến Ý trở thành nạn nhân tiếp theo. Trong cấu trúc nợ khoảng 1.600 tỉ euro của Ý (gấp nhiều lần so với khoản nợ 350 tỉ của Hy Lạp), có đến hơn 800 tỉ euro là các khoản nợ sẽ đáo hạn trong vòng năm năm và hơn 250 tỉ trong số đó là nợ sẽ đáo hạn trong vòng một năm. Nghĩa là nếu lãi suất tiếp tục giữ ở mức hiện tại thì chi phí phát hành mới trái phiếu để tài trợ cho các khoản nợ cũ sẽ tăng rất nhiều. Ví dụ, với hơn 250 tỉ euro trái phiếu kỳ hạn một năm của Ý thì trước đây lãi suất trung bình là 1,8%, hiện tại là gần 2,3%, đồng nghĩa với việc lãi phải trả hàng năm của Ý sẽ tăng lên khoảng hơn 1 tỉ euro so với hiện tại.
Một số liệu ước tính của Evolution Securities cho thấy nếu mặt bằng lãi suất vẫn như hiện tại thì tổng chi phí trả lãi vay của Ý sẽ tăng thêm gần 17 tỉ euro (khoảng 1% GDP) vào năm 2015. Với mức thâm hụt ngân sách khoảng 4-5% GDP hiện tại của Ý, thêm 1% GDP chi phí lãi vay này sẽ đẩy nước này tới gần hơn bờ vực khủng hoảng nợ.
Thực tế không thể phủ nhận là Ý có mức nợ công cao, tăng trưởng chậm và có một chính phủ bị xem là thiếu hiệu quả và không minh bạch. Trường hợp nếu Ý thực sự thiếu tiền trả các khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại hơn trường hợp Hy Lạp, Ireland hay Bồ Đào Nha vì Ý là nền kinh tế lớn thứ ba trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô khoản nợ của nước này cũng lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước này vốn dĩ là chậm chạp còn dân số Ý thì thuộc nhóm dân số già.
2.1.3. Nguy cơ vỡ nợ từ Hy Lạp lan sang Ireland rồi đến Bồ Đào Nha
Ireland
Ireland đã đưa ra các kết quả mới nhất về các ngân hàng nước này. Ngân hàng Trung Ương đã lên tiếng yêu cầu trợ giúp từ liên minh Châu Âu trong việc kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực ngân hàng do chi phí trang trải các khoản nợ lên tới 70 tỷ Euro, tương đương 99 tỷ USD, một con số nợ khổng lồ đối với một đất nước tạo ra 171 tỷ USD một năm.
Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như trường hợp Hy Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá sớm.Trước tiên, đó là một thị trường bất động sản bong bong.Trong một thập niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland tăng gần gấp 4 lần, thậm chí còn đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên thế giới như Los Angeles.
Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Và khi chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành ghánh nặng cho ngân khố quốc gia.
Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các biện pháp kinh tế khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ như giảm ít nhất 10% mưc lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000 biên chế trong các cơ quan nhà nước…
Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha thừa nhận thâm hụt ngân sách 2010 của quốc gia này ở mức 8,6 % GDP, cao hơn nhiều so với mục tiêu 7,3% đặt ra trước đó. Khoản nợ công của Bồ Đào Nha năm 2010 lên tới 84% GDP.Nghiêm trọng hơn, 70% các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngoài.Điều này đòng nghĩa với việc quốc gia này khó cos thể xoay xở hay trì hoãn khi bợ đáo hạn.
Dự báo, tỷ lệ nợ công Bồ Đào Nha sẽ tăng từ 82,4% trong tổng GDP trong năm ngoái lên 87,9% GDP trong năm nay và tăng đến 88,1% GDP vào năm tới. Cuộc khủng hoảng nợ công cũng khiến cho tình hình chính trị của nước này cũng bị chia rẽ sâu săc.Quốc hội Bồ Đào Nha đã bác bỏ chưpưng trình thắt lưng buộc bục của chính phủ nhằm hạn chế tác đọng của cuộc khủng hoảng tài chính của thủ tướng Bồ Đào Nha Ajose Socrates, khiến ông tuyên bố từ chức.
Moody đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của chính phủ Bồ Đào Nha xuống thêm một bặc, từ A3 xuống Baa1.Đây là lần thứ 2 trong vòng chưa đến 1 tháng Moody đã hạ bậc xếp hạng tín nhiệm của quốc gia này.Hãng này cho rằng chính phủ Bồ Đào Nha khó có thể đạt được những mục tiêu về giảm thâm hụt ngân sách giai đoạn 2011-2014.Trước đó ngày 29/3, Standard & Poor’s (S&P) cũng đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của Bồ Đào Nha từ BBB xuống BBB-.
Theo tuyên bố được đưa ra vào cuối ngày 6/4 của thủ tướng José Sócrates mới từ chức của nước Bồ Đào Nha, nước này chính thức đề nghị sự giúp đỡ tài chính từ bên ngoài để vực dậy hệ thống tài chính và nền kinh té.Các thành viên EU và giới phân tích nhận định quốc gia này cần ít nhất 100 tỷ USD để trang trải các khó khăn tài chính cho đén khi đáo hạn va tổng tuyển cử. Bồ Đào Nha phải trả 4,2 tỷ euro tiền trái phiếu đến hạn vào ngày 15/4 và them 4,9 tỷ USD vào thang 6.
Tây Ban Nha
Giới phân tích nhận định, Tây Ban nha có thể là nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nọe công với bong bong nhà đất khổng lồ và các vấn đề lien quan đến các khoản nợ tăng lên với mức đọ chóng mặt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS) kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Tây Ban Nha đã lên tới mức 312 điểm phần trăm, cao chưa từng ccó từ trước đến nay. Như vậy cứ 10 triệu euro nợ dài hạn của Tây Ban Nha sẽ mất 312.000 euro phí bảo lãnh.
Mạng tin “Dự báo thị truờng” (Anh) nhận định mặc dù Châu Âu vẫn chống chọi được với cơn bão khủng hoảng nợ công, nhưng những diễn biến mới nhất ở Bồ Đào Nha đang đe dọa đẩy cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực khỏi tầm kiểm soát.
2.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Nguyên nhân chính là do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng.
Tầm quan trọng của nợ nước ngoài có thể được minh họa bằng trường hợp của Bồ Đào Nha.Ở quốc gia này, mặc dù nợ công và tỷ lệ thâm hụt khá cao nhưng cũng chỉ tương tự như của Pháp. Vấn đề quan trọng nhất mà Bồ Đào Nha đang phải đối mặt, không phải là chính sách tài chính, mà là các khoản nợ nước ngoài cao của khu vực tư nhân: các ngân hàng và các doanh nghiệp Bồ Đào Nha.
Tầm quan trọng của các khoản nợ công cũng chỉ ở mức nhất định đối với một quốc gia, ví dụ như ở Ý và Bỉ. Cả 2 nước này có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn nhiều so với Bồ Đào Nha, nhưng mức phí bảo hiểm rủi ro mà họ phải trả lại thấp hơn nhiều so với nước này. Lý do chính là họ nợ nước ngoài rất ít, Bỉ thậm chí còn thặng dư tài khoản vãng lai.
Đặc biệt, là do trong khủng hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.
Điều quan trọng trên thị trường tài chính khi nhìn vào nợ công 1 quốc gia là ai là chủ nợ của chúng.
Tại các quốc gia khu vực đồng Euro, điều quan trọng là đảm bảo được hoạt động thu thuế. Với những quốc gia có nợ công cao nhưng nợ nước ngoài thấp, nợ công chủ yếu do người dân nắm giữ, và Chính phủ luôn luôn có thể giải quyết vấn đề nợ công bằng một số hình thức thu thuế.
Vì thế, nợ nước ngoài là thành phần chủ yếu gây ra những vấn đề trong khả năng thanh toán nợ của một quốc gia. Trường hợp ngoại lệ trong vấn đề này chính là Mỹ, giống như những gì được gọi là “đặc quyền cắt cổ” của nền kinh tế lớn nhất thế giới: nợ nước ngoài của Mỹ lại chính bằng đồng USD, giúp Chính phủ Mỹ có thể linh hoạt giải quyết các vấn đề nợ công.
Một điều phức tạp hơn nữa là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân của họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài.
Trong trường hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước ngoài.Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách, kêu gọi người dân bán tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong nước thay thế.
Một ví dụ đặc trưng là trường hợp của của Argentina năm 2001.Nợ nước ngoài ròng mà Argentina nắm giữ là không lớn, chỉ tương đương với số tài sản nước ngoài mà khu vực tư nhân trong nước nắm giữ. Mặc dù vậy, Chính phủ Argentina đã phá sản, bởi vì tầng lớp người giàu thì nhanh chóng bán tài sản ra nước ngoài, trong khi những người dân nghèo từ chối trả các khoản thuế cần thiết để giúp Chính phủ thanh toán nợ nước ngoài.
Nguyên nhân khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
Tiết kiệm trong nước thấp, vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công.
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng mạnh, bình quân ở mức 4.2%/năm trong giai đoạn 2002-2007. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu (EU), tạo điều kiện cho chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công. Thêm vào đó, tiết kiệm nội địa của nước này cũng sụt giảm nhanh chóng.Những năm cuối của của thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài.
Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm vấn đề.
Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Tính đến tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế được dự báo có thể vượt mức 120% GDP.
Bên cạnh đó, trong suốt thời gian dài Chính phủ Hy Lạp đã phải ngụy tạo các báo cáo về tình hình kinh tế trong nước, sắp xếp lại các giao dịch nhằm che dấu mức vay thực tế, nhằm phù hợp với các quy định gia nhập, giám sát của EU và có thể chi tiêu cao hơn.
Rủi ro lớn nhất của Hy Lạp là nợ vay nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn, có thể lên đến 80%. Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng trái phiếu chính phủ phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng châu Âu. Các nước Ý, Ireland cũng trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị đánh giá nghiêm trọng bằng Hy Lạp. Sở dĩ như vậy vì c