Trong xu thế toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phân công lao động trên thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ đã làm cho hoạt động đầu tư của một nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã vươn ra nhiều nước trên thế giới. Do vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài là tất yếu bởi các nhà đầu tư luôn tìm kiếm một môi trường thuận lợi hơn trong nước nhằm thu được lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nguồn vốn quan trọng đối với đầu tư và phát triển không chỉ ở các nước nghèo, mà kể cả các nước đang phát triển và các nước đã phát triển. Việt Nam là một nước đang phát triển, do vậy FDI đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, . Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai đoạn tăng tốc, do vậy FDI càng có vai trò quan trọng hơn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn vốn FDI, v.v. ”
Vì vậy để đánh giá tổng quan hoạt động FDI ở Việt Nam trong những năm gần đây và đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này, tác giả đã chọn đề tài: Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Tổng quan về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam
20 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phân công lao động trên thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ đã làm cho hoạt động đầu tư của một nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã vươn ra nhiều nước trên thế giới. Do vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài là tất yếu bởi các nhà đầu tư luôn tìm kiếm một môi trường thuận lợi hơn trong nước nhằm thu được lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nguồn vốn quan trọng đối với đầu tư và phát triển không chỉ ở các nước nghèo, mà kể cả các nước đang phát triển và các nước đã phát triển. Việt Nam là một nước đang phát triển, do vậy FDI đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, ... Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai đoạn tăng tốc, do vậy FDI càng có vai trò quan trọng hơn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn vốn FDI, v.v.. ”
Vì vậy để đánh giá tổng quan hoạt động FDI ở Việt Nam trong những năm gần đây và đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này, tác giả đã chọn đề tài: Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Tổng quan về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI)
1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư nói chung là việc bỏ vốn bằng tiền, tài sản, sức lao động, của cải vật chất, v.v... ở hiện tại nhằm thu được những kết quả nhất định trong tương lai. Hoạt động đầu tư (đầu tư vốn) là quá trình sử dụng vốn đầu tư để duy trì hoặc mở rộng tiềm lực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Hoạt động đầu tư là một quá trình bắt đầu từ khi nghiên cứu xác định các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, khả thi, quyết định đầu tư cho đến khi triển khai thực hiện đầu tư, vận hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thu kết quả và kết thúc đầu tư.
Căn cứ vào quan hệ quản lý, người ta phân hoạt động đầu tư thành hai loại: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: là sự đầu tư của các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào nước tiếp nhận để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm thu hút lợi nhuận. Đây là loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sở hữu, quản lý và điều hành việc sử dụng vốn, nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo quy định của mỗi nước. Đứng trên góc độ của nước tiếp nhận, dòng vốn nhận được theo hình thức đầu tư này gọi là vốn FDI
Quỹ tiền tệ quốc tế năm 1977 đưa ra khái niệm FDI là: việc đầu tư được thực hiện nhằm thu hút những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996, FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài nhằm xác định chủ tư bản được dịch chuyển trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
2. Phân loại FDI
Tuỳ theo phạm vi và mục đích nghiên cứu, FDI được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
2.1. Xét theo hình thức đầu tư
Căn cứ luật Đầu tư được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, FDI vào Việt Nam được thực hiện theo các hình thức sau:
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DN100%VNN): Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. DN100%VNN được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ nhà.
* Doanh nghiệp liên doanh (DNLD): Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. DNLD được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với DNLD trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận.
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD): Là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Thời hạn cần thiết cho hợp đồng hợp tác kinh doanh do các bên hợp tác thoả thuận phù hợp với tính chất, mục đích kinh doanh. HĐHTKD phải được các bên có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
Hình thức này được phổ biến trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và trong lĩnh vực bưu chính viễn thông. Ngoài ra còn được áp dụng trong lĩnh vực công nghiệp gia công và dịch vụ.
* Các hình thức BOT, BTO, BT
+ Hình thức BOT (Building Operate Transfer; Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao)
Đây là hình thức nhà ĐTNN ký với Chính phủ nước sở tại một hợp đồng để nhà ĐTNN thành lập một công ty BOT (DN100%VNN) xây dựng và vận hành một dự án trong một thời gian đủ để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó bàn giao hoàn toàn dự án cho nước sở tại.
Hình thức BOT chủ yếu áp dụng cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, nhiệt điện và thuỷ điện. v.v…
+ Hình thức BTO (Building Transfer Operate; Xây dựng-chuyển giao-kinh doanh)
Hình thức này giống như BOT, nhưng chỉ khác ở điểm trong hình thức BTO công trình sau khi xây dựng được khai thác sử dụng trong một thời gian mới chuyển giao cho nhà nước sở tại, còn lại hình thức BOT thì sau khi xây dựng xong, công trình được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại rồi chủ đầu tư mới được khai thác.
+ Hình thức BT (Building Transfer; Xây dựng - chuyển giao)
Hình thức này giống BOT ở chỗ sau khi xây dựng xong, công trình cơ sở hạ tầng được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại, nhưng khác ở điểm, trong hình thức BOT Chính phủ cho phép nhà ĐTNN được khai thác tại công trình đó, còn trong hình thức BT, Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Với nền kinh tế có cơ sở hạ tầng yếu kém thì hình thức BOT, BTO, BT rất được nước chủ nhà ưa chuộng vì nước chủ nhà không thể có đủ vốn để xây dựng các hệ thống hạ tầng cho nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam mới chỉ có FDI theo phương thức BOT, hình thức là DN100%VNN.
* Các hình thức khác
Ngoài các hình thức nên trên, FDI còn được thực hiện dưới các hình thức khác tuỳ theo mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư, chẳng hạn: công ty cổ phần có vốn ĐTNN, doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp hợp danh, v.v…
2.2. Xét theo khu vực kinh tế đầu tư: Tương ứng với từng khu vực trong nền kinh tế, FDI được phân loại như sau:
- FDI đầu tư vào khu vực I - Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản.
- FDI đầu tư vào khu vực II - Công nghiệp và Xây dựng.
- FDI đầu tư vào khu vực III - Dịch vụ.
2.3. Xét theo vùng kinh tế đầu tư: FDI được phân chia 8 vùng: Vùng Đông Bắc Bộ, vùng Tây Bắc Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đồng Bằng Sông Hồng, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và vùng Đông Nam Bộ.
2.4. Xét theo ngành kinh tế đầu tư: FDI được phân chia theo những ngành kinh tế chủ yếu: Ngành Nông, Lâm nghiệp; ngành Thuỷ sản; ngành Công nghiệp, ngành Xây dựng, ngành Khách sạn - Du lịch, ngành Giao thông vận tải, Bưu điện, ngành Tài chính, Ngân hàng và các ngành Dịch vụ khác.
2.5. Xét theo hiện trạng vốn đầu tư: vốn FDI được phân chia ra: vốn thực hiện vốn pháp định; vốn tăng thêm; vốn giải thể trước thời hạn,…
* Vốn thực hiện (VTH): là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư, vốn đầu tư để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm vốn pháp định và vốn vay.
* Vốn pháp định: vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN là mức vốn phải có để thành lập doanh nghiệp được ghi trong điều lệ của doanh nghiệp.
Phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của DNLD không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên, nhưng không < 30% vốn pháp định, trừ trường hợp do Chính phủ quy định.
* Vốn đăng ký (VĐK): là vốn do doanh nghiệp có vốn ĐTNN đăng ký với cơ quan cấp phép đầu tư dự kiến doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ đầu tư.
3. Một số đặc điểm FDI
Về bản chất, FDI là đầu tư của tư nhân nước ngoài với mục đích căn bản là lợi nhuận, nhà đầu tư trực tiếp bỏ vốn và điều hành hoạt động kinh doanh nên họ phải làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, nhà đầu tư cùng với việc đưa vốn vào còn đưa cả công nghệ, bí quyết, kỹ năng tiếp thị, quản lý, đào tạo nhân công, v.v... cho nước tiếp nhận vốn. Như vậy, ngoài việc được bổ sung nguồn vốn thiếu hụt, FDI còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và đào tạo đội ngũ lao động của nước tiếp nhận vốn. Do vậy, FDI có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, nhà ĐTNN trực tiếp bỏ vốn và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, FDI một mặt vẫn bổ sung được nguồn vốn thiếu hụt và tăng khả năng sử dụng các tiềm năng sẵn có của nước tiếp nhận, mặt khác lại không làm tăng gánh nợ nước ngoài của nước tiếp nhận.
Thứ hai, các chủ đầu tư thực hiện đầu tư tại nước sở tại nên phải tuân thủ theo các quy định mà pháp luật nước đó đề ra đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Thứ ba, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ đóng góp vốn. Nếu đóng góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ ĐTNN điều hành và quản lý.
Thứ tư, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, và tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. FDI hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty đa quốc gia.
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan chung về tình hình FDI ở Việt Nam
Cùng với chính sách đổi mới của đất nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành, từ năm 1988-2005, Việt Nam đã thu hút được 7279 dự án FDI, VĐK: 66.244,4 triệu USD, vốn FDI thực hiện: 34.429,8 triệu USD (bằng 51,97% VĐK). Tính đến thời điểm 1/1/2006 số dự án còn hiệu lực là 5.918 dự án, tổng vốn đầu tư là hơn 50.534,6 triệu USD và vốn FDI thực hiện là hơn 26.963,1 triệu USD.
* Tổng quan hoạt động FDI theo các giai đoạn
- Thời kỳ 1988-1990 là giai đoạn khởi động thu hút FDI : Trong giai đoạn này số dự án cấp mới chưa nhiều, quy mô VĐK bình quân cho một dự án nhỏ, vốn FDI thực hiện chưa có bởi vì các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam; khu công nghiệp và khu chế xuất chưa hình thành. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1988-1990: cả nước có 214 dự án, tổng VĐK là 1.602,2 triệu USD,…
- Thời kỳ 1991-1996 FDI phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ : Giai đoạn này hoạt động của khu vực FDI tại Việt Nam rất sôi động, cả về số dự án, VĐK, vốn FDI thực hiện và quy mô bình quân 1 dự án, nhưng tỷ lệ giữa vốn FDI thực hiện và VĐK còn chênh lệch khá nhiều, khu công nghiệp và khu chế xuất được hình thành và phát triển mạnh ở phía Nam. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1991-1996: cả nước có 1781 dự án (cả cấp mới), tổng VĐK (cấp mới và tăng vốn) là 27.827,1 triệu USD, tổng số vốn FDI thực hiện: 10.064.8 triệu USD.
- Giai đoạn 1997-2000 FDI liên tục giảm sút : Trong giai đoạn này hoạt động FDI có xu hướng giảm sút và kéo dài, VĐK và quy mô VĐK bình quân 1 dự án giảm nhanh liên tục, tuy nhiên số vốn FDI thực hiện bình quân 1 dự án tăng gần gấp đôi giai đoạn 1991- 1996. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1997-2000: cả nước có 1352 dự án (cả cấp mới), tổng VĐK (cấp mới và tăng vốn) là 16.094,9 triệu USD, tổng số vốn FDI thực hiện: 10.513, triệu USD,…
- Giai đoạn 2001 - 2005 FDI phục hồi và phát triển : Trong giai đoạn này FDI có dấu hiệu bắt đầu phục hồi trở lại. Số dự án (đặc biệt dự án tăng vốn) tăng rất nhanh, quy mô VĐK và VTH bình quân 1 dự án giảm dần. Kết quả đạt được trong thời kỳ 2001-2005: cả nước có 3935 dự án (cả cấp mới); tổng VĐK (cấp mới và tăng vốn) là 20.720,2 triệu USD; tổng số vốn FDI thực hiện: 13.852,8 triệu USD.
* Cơ cấu FDI theo một số ngành
Đối với một số ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như công nghiệp dầu khí, điện tử, sản xuất ô tô, xe gắn máy, thép, dệt, may, chế biến nông sản thực phẩm, v.v.... Theo số liệu thống kê công bố về cơ cấu sản lượng sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp của khu vực FDI năm 2000 về dầu thô khai thác chiếm 100%; ô tô lắp ráp chiếm 100%; năm 2003 chiếm 92,83%; ti vi rắp ráp năm 2000 chiếm 84,44%, năm 2003 chiếm 89,48%; xe máy lắp ráp năm 2000 chiếm 66,75%, năm 2003 chiếm 83,68%.
Những sản phẩm mới có giá trị cao như: Dầu khí, ô tô, xe máy, đồ gia dụng đắt tiền, thiết bị điện tử, viễn thông phần lớn do khu vực FDI sản xuất và đang giữ vai trò quan trọng trong sản xuất hàng xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý hơn, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời đã hình thành bước đầu hệ thống các khu chế xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động, ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Nhìn chung khu vực FDI có nhiều tiềm năng trong các ngành như: khai thác dầu khí và sản xuất hàng tiêu dùng chất lượng cao và làm hàng xuất khẩu, v.v...
Những ngành dịch vụ: Khách sạn - Du lịch; Giao thông vận tải, Bưu điện; Văn hoá - Y tế - Giáo dục; Tài chính - Ngân hàng, cơ cấu FDI có xu hướng giảm (giai đoạn 1993-2000). Năm 1996, FDI trong các lĩnh vực khách sạn giảm 53%, văn phòng cho thuê giảm 70% và tài chính ngân hàng giảm 44%. Mức giảm còn mạnh hơn vào năm 1997 và đầu năm 1998; trong khi đó các ngành dịch vụ khác có xu hướng tăng, nếu năm 1993 cơ cấu vốn đầu tư cho các ngành dịch vụ khác chiếm 4,6% thì đến năm 2000 đạt 10,2% tổng vốn của khu vực FDI.
Vậy cơ cấu vốn FDI thực hiện đầu tư theo ngành còn mang đậm nét tự phát, tập trung chủ yếu vào những ngành có thể thu được lợi nhuận nhanh như khai thác dầu khí, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, khách sạn, bất động sản, v.v… Trong khi đó chưa có nhiều dự án tập trung đầu tư vào chế biến nông sản và cơ khí chế tạo.
* FDI theo nước đầu tư
Trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư nước ngoài Đài Loan và Hồng Kông luôn là những đối tác hàng đầu FDI vào Việt Nam, sau năm 1993 Nhật Bản, Singapor, Hàn quốc và một số nước ASEAN khác trở thành những nước đầu tư lớn, nhóm Nics và Nhật Bản chiếm tới 63,81% số dự án, VĐK chiếm 60,75% và vốn FDI thực hiện chiếm tới 57,58% tổng vốn FDI thực hiện trong nước.
Trong khi đó các nước có nền kinh tế phát triển thuộc nhóm các nước Bắc Mỹ trong đó có Hoa Kỳ và Canada vốn FDI thực hiện chiếm 2,77% và các nước thuộc nhóm Châu Âu chiếm 18,28% tổng số vốn FDI thực hiện của khu vực FDI đầu tư vào Việt Nam, điều này 1 phần lý giải, lý do tại sao ngành công nghệ cao ở Việt Nam chỉ chiếm 19% trong tổng GTSX công nghiệp chế biến, trong khi đó Malaxia chiếm tới 51,1% và Thái Lan là 30,8%. Các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Canada, v.v… lượng vốn FDI thực hiện ở Việt Nam thấp, do đó nó ảnh hưởng đến trình độ phát triển công nghệ ở nước nhận đầu tư.
Nếu so sánh tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với VĐK giữa nhóm các nước đầu tư vào Việt Nam thì nhóm các nước thuộc Châu Âu chiếm tỷ lệ cao nhất so với nhóm các nước khác, điều này thể hiện: Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với VĐK các nước thuộc nhóm Châu Âu là 68,12%; nhóm các nước NICs và Nhật Bản là 50,57%; các nước thuộc nhóm ASEAN là 55,29% và thấp nhất là nhóm các nước Bắc Mỹ chỉ chiếm 43,17%, điều này chứng tỏ các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư châu Âu nói riêng đã yên tâm hơn đối với môi trường đầu tư ở Việt Nam.
2. Phân tích hiệu quả FDI ở Việt Nam
2.1 Tác động tích cực của FDI
Hiệu quả FDI ngày càng được cải thiện, mặc dù bị suy giảm đáng kể khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á. Đặc biệt từ năm 2003 hiệu quả FDI ngày càng được cải thiện một cách rõ rệt hơn, năm 2003 tốc độ tăng trưởng đạt 10,5%, năm 2005 khu vực FDI đạt tốc độ tăng trưởng là 13,2%.
FDI với tăng trưởng kinh tế
Khu vực FDI là một trong số các động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm giai đoạn 1993-2005, khu vực FDI ở Việt Nam là 7,5%, khu vực FDI luôn là khu vực năng động và hoạt động có hiệu quả đối với nền kinh tế, điều đó được thể hiện tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP ngày một tăng qua một số năm.
FDI với cải thiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, cơ cấu kinh tế Việt Nam cần chuyển dịch theo hướng sau:
+ Giảm tỷ trọng ngành Nông, lâm nghiệp trong GDP xuống còn 16,5%. Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành mũi nhọn.
+ Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như công nghiệp chế biến trong đó đẩy mạnh chế biến mặt hàng công nghệ cao.
+ Phát triển ngành xây dựng ứng dụng công nghệ hiện đại.
+ Đối với ngành dịch vụ, chủ trương phát triển các ngành: thương mại, dịch vụ vận tải và thông tin liên lạc; tài chính tiền tệ tín dụng; hoạt động khoa học kỹ thuật; hoạt động liên quan đến tài sản và dịch vụ tư vấn.
FDI cải thiện kim ngạch xuất khẩu
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Nếu xem xét tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu của khu vực FDI so với vốn FDI thực hiện, khu vực FDI ngày càng tạo ra nhiều giá trị xuất khẩu.
FDI cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Khu vực FDI tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu của khu vực FDI.
- Đối với cán cân thương mại, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng từ 5 triệu USD năm 1995 đã tăng 4274 triệu USD năm 2005. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh là do khu vực FDI chiếm một tỷ trọng đáng kể trong ngành công nghiệp dầu khí, trong khi đó năm 2004 hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giá trị xuất khẩu chiếm 32,6%, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 41,2% trong tổng trị giá hàng xuất khẩu.
FDI tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Nộp ngân sách nhà nước của khu vực FDI (không kể thu từ dầu khí và hoạt động xuất nhập khẩu) không ngừng tăng lên cả về mặt giá trị lẫn tỷ trọng chiếm trong tổng thu ngân sách nhà nước. Năm 2005 nộp ngân sách nhà nước của khu vực FDI tăng mạnh nhất từ trước đến nay, đạt trên 1100 triệu USD, đây là lần đầu tiên kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài đến nay đóng góp cho ngân sách nhà nước (không kể thu từ dầu khí) vượt ngưỡng 1100 triệu USD và đạt tốc độ tăng là 115,7% so với năm 2004.
FDI tạo thêm việc làm cho người lao động
Giai đoạn 1993 - 2005, khu vực FDI đã trực tiếp giải quyết việc làm hơn 1 triệu người, trong đó lao động tại khu công nghiệp và chế xuất chiếm hơn 75% số người làm việc trực tiếp tại khu vực FDI. Ngoài ra còn gián tiếp tạo việc làm cho hơn 2 triệu lao động làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan đến FDI.
FDI với chuyển giao, đổi mới công nghệ và